Monday, May 22, 2006

Bức thư của người đàn bà xa lạ - P.4

Trong cái ngày cuối cùng đó, em cảm thấy với một niềm quả quyết đột ngột, rằng em ko thể sống xa anh được. Em ko thấy cứu tinh nào khác ngoài anh. Em ko thể giải thích được làm sao cái ý nghĩ đó lại đến trong đầu em và đúng ra liệu em có khả năng suy nghĩ tình tường trong những giờ tuyệt vọng đó hay ko, những đột nhiên - lúc ấy mẹ em vắng nhà - em đứng dậy và cứ mặc nguyên quần áo học sinh như thế, em đi về phía anh. Hay nói cho cùng thì ko phải thế, chữ "đi" ko chính xác, đúng hơn, một sức mạnh nam châm hút em về phía cửa phòng anh, hai chân cứng đờ, các khớp xương run rẩy. Em vừa nói với anh rằng em ko biết rõ em muốn gì nữa; phủ phục dưới chân anh, và xin anh giữ em lại làm con hầu, làm nữ tỳ, và em rất sợ là anh cười cái cuồng tín ngây thơ của một con bé 15, nhưng anh yêu của em, hẳn anh sẽ ko cười nếu anh biết lúc bấy giờ em ở tình trạng như thế nào, đứng ngoài hành lang lạnh giá, sợ cứng người và mặc dầu thế vẫn bị một sức mạnh ko thể tưởng tượng nổi thúc đẩy về phía trước, nếu anh biết em đã rứt cánh tay - có thể nói thế đấy - đã rứt cánh tay run rẩy ra khỏi mình thế nào để giơ nó lên và - đây là một cuộc đấy tranh kéo dài trong những giay kinh khủng tưởng như đằng đẵng một thiên thu - ấn vào cái nút trên cánh cửa. Đến tận ngày hôm nay, em vẫn thấy vẳng trong tai tiếng chioong rền rồi phút im lặng tiếp theo, trong khi tim em chững lại, máu em thôi ko tuần hoàn nữa và em chỉ còn ngong ngóng xem anh có ra ko.

Nhưng anh đã không ra. Không có ai ra cả. Hẳn là chiều hôm ấy anh đi chơi và bác Jăng cũng chạy quanh có việc; và thế là em loạng choạng trở về — với trong đôi tai ong ong, tiếng chuông rền — quay vào căn phòng đảo lộn và trống tuếch, em kiệt sức gieo mình xuống một tấm chăn du lịch, đi có mấy bước ấy thôi mà mệt như vừa lặn lội hàng giờ qua một lớp tuyết dày. Nhưng bên dưới cơn mệt ấy, cháy bỏng cái quyết tâm vẫn còn cuồng nhiệt là phải gặp anh và nói chuyện với anh trước khi bị giằng đi khỏi nơi này. Em thề với anh rằng trong đó không hề có mảy may ý nghĩ nhục dục nào; dạo ấy em còn chưa biết gì chính bởi em không nghĩ đến gì khác ngoài anh ra; em chỉ muốn trông thấy anh, trông thấy anh lần nữa, níu chặt lấy anh. Suốt đêm, suốt cái đêm dài khủng khiếp ấy, anh yêu thương của em ạ, em đã chờ anh.

Mẹ em vừa nằm vào giường và ngủ thiếp đi là em lẻn ngay ra phòng chờ để ngóng tiếng anh trở về. Em đợi suốt đêm và và đó là một đêm tháng giêng giá buốt. Em mệt nhoài, chân tay đau như giần, không có cái ghế nào mà ngồi: em bèn nằm luôn ra sàn lạnh có gió lùa từ cửa ra vào. Em cứ nằm như thế, rét cóng, thân mình ê ẩm, trên người chỉ có bộ quần áo mỏng vì em không mang chăn ra theo; em không muốn ấm quá sợ ngủ quên đi mất, không nghe thấy tiếng chân anh. Ôi! cái nỗi đau đớn em cảm thấy! Em co ro ép hai bàn chân vào nhau, hai cánh tay em run lên và em bắt buộc phải đứng dậy luôn luôn vì quá lạnh trong cái bóng tối gớm ghiếc này. Nhưng em vẫn đợi anh, em đợi anh, em đợi anh như đợi số mệnh mình.

Cuối cùng — lúc ấy hẳn đã hai, ba giờ sáng — em nghe thấy tiếng cánh cửa dưới nhà mở ra rồi tiếng chân bước lên cầu thang. Cái rét đột nhiên biến mất, một hơi ấm mãnh liệt tràn vào người em và em nhẹ nhàng mở cửa để chạy bổ tới phủ phục dưới chân anh . . . Ôi! quả thật em không biết là cái con bé điên là em bấy giờ, có thể làm những gì nữa! Tiếng chân lại gần, ánh một ngọn nến lay động trên tường. Em run run nắm lấy then cửa: có phải đúng anh đang đến đấy không?

Phải, chính là anh, anh yêu của em, nhưng anh không phải chỉ có một mình. Em nghe thấy một tiếng cười nhẹ lâng và vui tươi, tiếng sột soạt một tà áo lụa và giọng anh thì thầm. Anh trở về phòng anh với một người đàn bà . . .

Làm thế nào em có thể sống sót nổi sau cái đêm đó, em cũng không biết nữa. Tám giờ sáng ngày hôm sau, người ta đem em đi Innsbruck; em chẳng còn hơi sức nào mà kháng cự.

Con em chết đêm qua — từ nay em lại chỉ có một mình, nếu như em còn có thể tiếp tục sống. Ngày mai, những người đàn ông không quen biết, thô lỗ, mặc đồ đen sẽ đến, sẽ mang đến một cái quan tài và họ sẽ bỏ đứa con tội nghiệp, đứa con độc nhất của em vào đó. Có thể bạn bè cũng sẽ đến, mang theo những vòng hoa, nhưng hoa thì làm được gì trên một cỗ quan tài? Họ sẽ an ủi em, họ sẽ nói với em lời này lẽ khác, nhưng tất cả những cái đó thì có ích gì cho em? Em biết vậy, và thế là em lại có thể cô đơn. Và không còn gì đáng sợ hơn là cô đơn giữa những con người.

Điều đó, em đã hiểu ra trong hai mươi bốn tháng đằng đẵng dài bất tận ở Innsbruck, cái thời gian giữa tuổi mười lăm và tuổi mười tám, trong đó em sống như một tù nhân, một kẻ bị ruồng rẫy trong gia đình em. Bố dượng em là một người rất trầm tĩnh, ít nói, đối với em rất tốt như để sửa chữa một bất công ngoài ý muốn, mẹ em tỏ ra ngoan ngoãn làm theo mọi mong muốn của em, những chàng trai xoắn xuýt quanh em nhưng em một mực lồng lộn cự tuyệt tất cả. Em không muốn sống sung sướng, thoả mãn xa anh và em ngụp vào một cái thế giới u tối tạo nên bởi sự cô đơn và bởi những dằn vặt mà em tự chuốc lấy. Người ta mua cho em những áo mới, đẹp, em không mặc; em từ chối không đi nghe hòa nhạc, xem hát, hoặc tham gia vào các cuộc vui chơi đông đúc, vui vẻ. Họa hoằn lắm em mới ra khỏi nhà: anh yêu, anh có tin rằng trong cái thành phố nhỏ này, nơi em đã sống hai năm trời, em không biết tới mười phố?

Em rầu rĩ và em muốn rầu rĩ như thế; em say sưa với mỗi một mất mát và em cộng thêm vào cái mất mát không được thấy anh. Tóm lại em không muốn để mình lãng khỏi nỗi mê cuồng lớn ấy, em chỉ muốn sống trong anh mà thôi. Em cứ ngồi ở nhà hàng giờ liền, hàng ngày liền không làm gì cả ngoài việc nghĩ đến anh, ôn đi ôn lại hoài hàng trăm kỉ niệm em còn giữ được về anh, mỗi một lần gặp, mỗi một lần chờ đợi — và bao giờ cũng mường tượng ra những hồi ngắn ngủi ấy như trên sân khấu. Và chính vì gợi lại không biết bao nhiêu lần mỗi giây phút của quá khứ, mà tất cả thời thơ trẻ của em vẫn còn nóng hổi trong trí nhớ, đến nỗi tận hôm nay, mỗi phút của những năm đó vẫn còn sinh động trong em với tất cả cái cuồng nhiệt và xúc động như thể nó mới chỉ làm máu em giần giật hôm qua thôi.

Dạo ấy em chỉ duy nhất sống trong anh. Em mua tất cả những sách anh viết; khi thấy báo chí nhắc đến tên anh, đó là một ngày hội đối với em. Anh có tin rằng em đọc đi đọc lại hàng bao nhiêu lần những sách của anh đến nỗi thuộc lòng từng dòng không? Ngay hôm nay, ngay bây giờ đây sau mười ba năm, nếu có ai nửa đêm đánh thức em dậy, đọc trước mặt em một dòng giữa quãng trong bất kỳ cuốn sách nào của anh, em vẫn có thể đọc tiếp luôn được như trong một giấc mơ; bởi vì, mỗi lời, mỗi chữ của anh, đối với em, là một thứ kinh phúc âm và một lời cầu nguyện. Tất cả thế gian chỉ tồn tại đối với em trong chừng mực nó liên quan đến anh; em theo dõi mục thông báo các cuộc hoà nhạc và những buổi công diễn đầu tiên đăng trên báo chí thành Viên chỉ cốt để đoán xem anh thích cuộc nào trong số đó, và tối đến, từ xa thẳm, em đi theo anh từng bước, lòng nhủ lòng: bây giờ anh ấy vào trong rạp, bây giờ anh ấy ngồi xuống ghế. Em mơ thế hàng ngàn lần, bởi đã có lần em trông thấy anh trong một buổi hoà nhạc.

Nhưng tại sao em lại kể cho anh những cái đó cái cuồng tín dữ dội lồng lộn chống lại cả bản thân em, cái cuồng tín tuyệt vọng một cách bi thảm đến thế của một con bé bị bỏ rơi? Tại sao lại đi kể cho một người chưa hề mảy may ngờ đến chuyện đó, chưa hề biết đến chuyện đó? Mà bấy giwò em có còn là một con bé nữa ko? Em đã đến tuổi 17, 18, các chàng trai đã bắt đầu ngoảnh lại nhìn em ngoài phố; nhưng họ chỉ làm em bực mình. Bởi lẽ tình yêu, thậm chí chỉ một trò chơi tình yêu đơn thuần, hoàn toàn tưởng tượng, với một người nào khác ko phải là anh, cái đó đối với em là một điều ko thể quan niệm nổi và em ko sao chấp nhânk được ý nghĩ đó, chỉ riêng sự cám dỗ đã là một trọng tội dưới mắt em. Lòng em say mê anh vẫn nguyên vẹn như cũ, có điều, nó biến chuyển cùng với thân hình em, chừng nào những giác quan của em thức dậy, thì nó lại càng nồng nhiệt hơn, cụ thể hơn, đàn bà hơn. Và cái hành dộng mà con bé chưa biết gì ko thể ý thức nổi trong cái ý lực mập mờ hỗn độn khi giật chuông cửa phòng anh giờ đây đã thành ý nghĩ duy nhất của em; trao thân cho anh, hiến trọng cuộc đời cho anh.

Những người ở quanh em nghĩ rằng em rụt rè và bảo em là nhút nhát (em ko hề hé răng lộ ra điều bí mật của mình) Nhưng trong em đã hình thành ý chí sắt đá. Tất cả ý nghĩ và cố gắng của em vươn về một mục đich duy nhất: trở về Viên, trở về bên anh. Và em đã thành công cưỡng đặt ý chí của mình, mặc dầu nó thật rồ dại, khó hiểu đối với những người khác. Bố dượng em giàu, ông coi em như con đẻ. Nhưng với một sự bướng bỉnh hung dữ, em khăng khăng đòi đi làm để tự nuôi thân, và cuối cùng, em đã được trở về Viên ở nhà một người bà con và làm công cho một hãng may lớn.
(to be continued...)

Thursday, May 18, 2006

Bức thư của người đàn bà xa lạ - P.3

Tất cả những gì trào lên và nở rộ trong em chỉ còn biết có anh, chỉ còn mơ đến anh và lấy anh làm người tâm sự.

Ba em mất đã lâu; mẹ em thì xa lạ đối với em, mẹ lúc nào cũng rầu rĩ, trĩu xuống với những lo âu của người quả phụ chỉ có số tiền tuất để sinh sống, bọn con gái ở trường, đã gần như sa đọa, làm em ghê tởm, vì chúng nó thường nhởn nhơ đùa rỡn với cái là niềm say mê tối thượng đối với em. Cho nên tất cả những gì ở chỗ khác xé lẻ ra, phân chia ra, thì ở nơi em chỉ họp thành một khối, và cả con người em, kết đọng lại trong bản thân nó, luôn luôn sôi sục một nỗi cuồng nhiệt xao xuyến, hướng về anh. Đối với em, anh là — em biết nói thế nào đây? mọi sự so sánh đều quá yếu — anh là . . . chính thế . . . là tất cả đối với em, là cả cuộc đời em, không có cái gì tồn tại đối với em nếu nó không dính líu đến anh; không có gì trong cuộc sống của em còn có ý nghĩa nếu nó không đưa em xích lại gần anh. Anh đã làm thay đổi đến gốc rễ cách sống của em. Từ trước đến giờ, vốn hững hờ và thuộc loại học xoàng ở trường, em bỗng trở thành học sinh đứng đầu lớp; em đọc hàng trăm cuốn sách, đọc rất khuya, bởi vì em biết anh yêu thích sách; đùng một cái, em bắt đầu lao vào tập piano với một sự kiên trì hầu như không tưởng tượng nổi khiến mẹ em rất ngạc nhiên chỉ vì em nghĩ là anh yêu âm nhạc. Em vá víu lại quần áo, em chăm chút bộ cánh chỉ cốt để có vẻ sạch sẽ và ưa nhìn trước mắt anh; và cứ nghĩ đến chiếc áo "blu" đi trường (đó là một cái áo mặc trong nhà của mẹ em chữa lại) có một miếng vá vuông vuông ở bên trái, em lại thấy thật bỉ ổi. Nhỡ ra tình cờ anh nhìn thấy mụn vá ấy, anh khinh em thì sao? Chính vì thế mà bao giờ em cũng khư khư ôm chặt lấy cặp sách khi chạy lên cầu thang gác, run lên vì sợ. Nỗi sợ hãi ấy thật vô nghĩa lý vì chẳng bao giờ, gần như chẳng bao giờ anh còn nhìn đến em nữa.

Và mặc dầu vậy, nói thật tình, suốt ngày, em chỉ chờ anh, rình ngóng anh. Ở cửa phòng nhà em có một lỗ cửa nhỏ bằng đồng mầu vàng, có thể ghé mắt qua cái ô kính tròn tròn của nó nhìn thấy mọi sự diễn ra trên sàn cầu thang, cho đến tận cửa phòng anh. Cái ô cửa đó — không, anh yêu của em, anh đừng cười; đến tận hôm nay em vẫn chẳng thấy xấu hổ gì về những giờ đó cả! — cái ô cửa đấy đối với em chính là con mắt em dùng để khám phá vũ trụ; nơi đó, ròng rã hàng tháng, hàng năm trời, trong căn phòng chờ lạnh giá, lúc nào cũng sợ mẹ em sinh nghi, em ngồi rình hết chiều này đến chiều khác, một cuốn sách trên tay, căng thẳng như một sợi dây vĩ cầm và cũng ngân rung như một sợi dây vĩ cầm khi được sự hiện diện của anh chạm đến. Luôn luôn em bận bịu vì anh, luôn luôn chờ đợi và ngồi đứng không yên; nhưng nào anh có biết, cũng như anh chẳng hề biết đến cái lò so căng thẳng của chiếc đồng hồ anh mang trong túi, trong bóng tối nó kiên nhẫn đo đếm những giờ khắc của anh và điểm theo bước chân anh bằng một nhịp tim đập thầm thì trong khi con mắt vội vã của anh chỉ lơ đãng lướt qua nó có một lần duy nhất trong số hàng triệu tích tắc thao thức hoài không ngơi. Em biết mọi thứ về anh, từng chiếc ca-vát của anh, từng bộ quần áo của anh; em biết và mau chóng phân biệt được mỗi người khách đến thăm anh và em chia họ ra làm hai loại: những người em có thiện cảm và những người em có ác cảm; từ năm mười ba đến năm mười sáu tuổi, không có một giờ nào em không sống trong anh. Ôi! Hồi đó em còn có cái trò rồ dại nào mà em không làm nữa! Em hôn cái quả đấm cửa anh đã chạm tay vào, em nhặt trộm một mẩu xì gà anh vứt đi trước khi vào nhà, nó rất thiêng liêng đối với em vì anh đã đặt môi lên đó. Tới tối em viện mọi cớ xuống dưới đường tới hàng trăm lượt để xem gian buồng nào của anh được thắp sáng và do đó, cảm thấy cụ thể hơn sự có mặt vô hình của anh. Và trong những tuần lễ anh đi xa — cứ nhìn thấy bác Jăng phúc hậu mang cái túi du lịch mầu vàng của anh xuống là tim em ngừng đập vì sợ hãi — trong những tuần đó cuộc đời của em như chết rồi, không còn mục tiêu gì cả. Em đi đi lại lại, cáu kỉnh, phiền muộn, dữ tợn mà lúc nào cũng phải đề phòng sao cho mẹ em đừng để ý thấy nỗi tuyệt vọng cùng đôi mắt ướt lệ của em.

Em biết rằng những điều em kể với anh đây chỉ là những phấn khích lố bịch và những trò rồ dại của con nít. Đáng lẽ em phải lấy làm xấu hổ, bởi vì ko lúc nào tình yêu của em đối với anh lại trong trắng và say mê hơn trong những cơn thái quá trẻ con ấy. Em có thể kể cho anh nghe hàng giờ, hàng ngày liền là hồi ấy em đã sống với anh như thế nào, với anh, người hầu như chưa biết mặt em, bởi vì những lúc gặp anh trên cầu thang ko có cách nào tránh được do sợ cái nhìn cháy bỏng của anh, em thường cắm đầu chạy vutk qua như một người sắp lao xuống nước , tất cả chỉ là dể anh kkhỏi thấy má em đỏ bừng lên. Em có thể kể cho anh nghe hàng giờ, hàng ngày liền về những năm tháng ấy mà anh đã quên từ lâu; em có thể giở từng tờ cuốn lịch đời anh; nhưng em ko muốn làm anh phiền lòng, em ko muốn dày vò anh. Em chỉ muốn thổ lộ thêm với anh về cái sự kiện tốt đẹp nhất thời trẻ thơ của em và em xin anh đừng có chế giễu sự vô nghiã lý của nó, bởi vì đối với em lúc đó hãy còn bé, nó lại là một cõi vô cùng vô tận. Đó là một ngày chủ nhật, anh đang đi xa, và người lão bộc của anh kéo những tấm thảm nặng vừa rũ bụi xong qua cửa phòng anh. Ông lão phúc hậu khuân ì ạch một cách vất vả, em đánh bạo lại gần xin giúp bác một tay. Bác ấy ngạc nhiên nhưng rồi đồng ý để em làm , và do đó, em được thấy - Ôi! Em muốn nói với anh rằng em đã chiêm ngưỡng với biết bao thành kính tôn sùng- em được thấy bên trong phòng anh, thế giới của anh, cái bàn anh ngồi viết, trên đó có vài bông hoa cắm trên một bình pha lê xanh lơ, đồ đạc của anh, những bức tranh, sách vở của anh. Đó chỉ là một cái nhìn lén thoáng qua vào cuộc đời anh. Bởi vì chắc chắn bác Jăng trung thành của anh sẽ cấm em nếu em định đi sâu vào nữa; nhưng chỉ thế thôi cũng đủ cho em hấp thụ hết cái không khí đó và cung cấp đủ dự trữ cho em mơ hoài mơ huỷ vô cùng tận đến anh trong những giờ thao thức và trong giấc ngủ triền miên.

Cái phút ngắn ngủi đó là hạnh phúc nhất trong thời thơ tre của em. Em muốn kể lại cho anh để anh, người ko hề biết đến em, bắt đầu hiểu một cuộc đời đã gắn bó với anh đến mức tiêu tan trong anh như thế nào.

Em muốn kể lại giờ phút đó cùng với một giờ phút khác nữa, rất gần kề mà than ôi! Xiết bao khủng khiếp. Như em đã nói với anh, em đã quên mọi thứ vì anh, em ko nhòm ngó đến mẹ em và chẳng quan tâm đến ai, Em ko nhận thấy rằng một ông lớn tuổi, một thương gia ở Inxpruck, họ xa đằng bố em, dạo đó thường đến thăm mẹ em luôn và thường ở lại chơi lâu; trái lại, em lại thích thế vì ông ta hay đưa mẹ đi xem hát, do đó em có thể một mình ngồi nghĩ đến anh và rình ngóng anh, điều diễm phúc lớn nhất và duy nhất của em. Thế rồi một hôm, mẹ gọi em vào phòng vẻ khá trịnh trọng và bảo có chuyênk cần nói với em một cách nghiêm túc. Em tái mặt đi và tim bắt đầu đập như trống làng, mẹ ngờ ngợ điều gì chăng, mẹ đoán ra rồi chăng? Ý nghĩ đầu tiên của em là về anh, cái bí mật nhờ đó mà em tiếp xúc được với thế giới. Nhưng chính me em cũng bối rối, mẹ ôm hôn em, điều mà mẹ chưa từng làm - hôn đằm thắm. Một lần, hai lần, mẹ kéo em lại ngồi cạnh mẹ trên ghé xô-pha rồi bắt đầu ngập ngững và rụt rè kể rằng ông bác họ kia của em vốn goá vợ, đã ngỏ lời cầu hôn với mẹ và mẹ đã quyết định nhận lời; chủ yếu vì lợi ích của em. Máu em dồn về tim mạnh hơn, một ý nghĩ duy nhất dội lại trong thâm tâm em, hoàn toàn hướng về anh.

- Nhưng mẹ con ta vẫn ở lại đây chứ? - Em khó nhọc lắm mới ấp úng hỏi được như thế.

-Không, chúng ta sẽ về Inxpruck, ở đó, Ferdinan có một toà biệt thự rất đẹp.

Em ko nghe thấy gì thêm nữa, mắt em tối sầm lại. Về sau, em được biết là em đã ngất đi, em nghe thấy mẹ em kể với ông chồng tương lai, lúc đó đứng chờ đằng sau cửa, rằng em đã lùi lại bất thình lình, hai tay dang ra rồi đổ xuống như một khối chì. Những điều xảy ra trong những ngày tiếp theo và em, một con bé yếu đuối, em đã vùng vẫy chống lại ý chí áp đảo của họ như thế nào, em ko thể kể cho anh nghe được, chỉ nghĩ đến những cái đó, tay em vẫn còn run lên khi viết cho anh đây. Vì ko nói ra được điều bí mật thật sự của mình, sự kháng cự của em có vẻ chỉ là tính ương bướng, độc ác và thách thức, ko ai nói gì với em nữa, mọi sự cứ tiến hành sau lưng em. Người ta lợi dụng những giờ em đi học để thu xếp việc dọn nhà, mỗi lần em ở trường về, đều thấy có cái gì mang đi rồi hoặc đem bán. Thành thử em thấy căn phòng tan đi từng mảnh một, đồng thời cuộc đời em cũng vậy, cuối cùng một hôm khi về ăn trưa, em thấy những người fói gồ đã đến khuân hết đi. Trong những căn buồng trống rỗng là những cái hòm sẵn sàng khởi hành cùng hai cái sập cho mẹ em và em. hai mẹ con còn phải ngủ ở đó một đêm nữa, đêm cuối cùng và hôm sau sẽ lên đường về Inxpruck.
(to be continued...)

Wednesday, May 17, 2006

Bức thư của người đàn bà xa lạ - P.2

Trước khi anh đến ngôi nhà này, đằng sau cánh cửa phòng anh là những con người độc ác, đáng hét và hay cãi lộn. Vốn nghèo khổ, điều hộ ghét nhất là những người hàng xóm bần hàn, là chính mẹ con đây, bởi lẽ mẹ con em ko muốn có gì giống với sự thô tục kiểu người nghèo vô tư cách của họ. Người chồng là một gã nghiện rượu hay đánh vợ; mẹ con em đang đêm cứ thức giấc luôn vì tiếng ghế quăng mạnh trên sàn, tiếng đĩa bị đập vỡ loảng xoảng; có lần, người vợ bị đánh máu me đầm đìa, đầu tóc rũ rượi, chạy xuống cầu thang; gã say cứ hò hét đằng sau cho đến khi hàng xóm phải doạ đi gọi cảnh sát mới thôi. Thoạt đầu, mẹ em tránh mọi quan hệ vơi họ và cấm em ko được trò chuyện với con cái họ, bọn này tìm mọi cơ hội để trả thù em. Khi gặp em ngoài phố, chúng đi theo văng ra những lời tục tĩu và một hôm, chúng lấy những nắm tuyết to tướng đánh em chay máu trán. Cả nhà theo bản năng, đều ghét bọn người đó và cho đến một hôm có chuyện ko hay xảy đến với họ- hình như người chồng bị bỏ tù vì tội ăn cắp- và họ phải cuốn gói thì chúng em đều thở phào. Trong một vài ngày , tấm biển yết cho thuê được treo trước cửa nhà rồi được cất đi và chẳng mấy chốc bác gác cửa cho biết à một nhà văn, một quý ông điềm đạm và có một mình, đã thuê căn phòng đó. Chính đó là lúc em được nghe nhắc đến tên anh lần đầu.

Được mấy ngày sau, thợ sơn, thợ vữa, thợ trang trí, phủ tường, kéo đến tu sửa căn phòng vừa thoát khỏi đám chủ cũ bẩn thỉu; chỉ toàn thấy tiếng búa, tiếng dụng cụ, tiếng cọ rửa, nhưng mẹ em chẳng hề lấy thế làm phiền vì mẹ em bảo thế là cuối cùng, những cảnh vợ chồng cãi lộn om xòm đã chấm dứt hẳn. Bản thân anh thid trong suốt thời gian dọn nhà, em chẳng hề thấy đâu; mọi công việc đều do người của anh trông nom, cái bác người hầu thấp bé rất nền nã, nghiêm nghị, tóc hoa râm, đường hoàng bảo ban mọi sự với phong thái đĩnh đạc và tự tin. Bác ta gây ấn tượng mạnh đối với tất cả bọn em, trước hết bởi vì trong cái ngôi nhà ngoại ô này của chúng em, một người hầu đường bệ mang hơi hướng xã hội thượng lưu, quả là một cái gì hoàn toàn mới mẻ. Thứ nữa, bởi vì bác ta hết sức lễ độ với mọi người mà vẫn ko cá mè một lứa với đám đầy tớ. Ngay từ hôm đầu, bác đã kính cẩn chào mẹ em như một phu nhân và ngay cả đối với em lúc đó chỉ là một con bé con, bao giờ bác cũng tỏ ra hoà nhã và rất lịch sự. Khi bác nhắc đến tên anh, bao giờ cũng là vẻ hơi cung kính, một sự trân trọng đặc biệt; Người ta thấy ngay rằng bác ta gắn bó với anh hơn nhiều so với quan hệ chủ, tớ thông thường. Ôi! Vì điểm đó mà em yêu bác ấy biết bao, bác Jăng đôn hậu, mặc dù em vẫn ghen với bác luôn luôn được ở bên anh, hầu hạ anh!


Em kể cho anh tất cả những cái đó, anh thương yêu, tất cả những điều vặt vãnh đó, gần như là kỳ cục, để anh hiểu làm sao ngay từ đầu anh đã có một uy lực đến thế đối với con bé nhút nhát rụt rè là em lúc bấy giờ, ngay cả trước khi anh bước vào cuộc đời em, xung quanh anh như toả ra một vòng hào quang, một vòng hào quang phú quý, dị thường và huyền bí; tất cả mọi người trong ngôi nhà ngoại ô này (Những người sống một cuộc sống chật hẹp bao giờ cũng tò mò muốn biết mọi cái mới mẻ qua trước cửa nhà họ đều nóng lòng nóng ruột chờ anh tới, Và sự tò mò anh đánh thức dậy trong em mới tăng lên biết nhường nào, khi một buổi chiều đi học về, em nhìn thấy trước cửa nhà cỗ xe chở đồ đạc! Phần lớn những bàn ghế, giường tủ, những thứ nặng nề nhất, đã được khuân vào phòng và lúc bấy giờ người ta đang chuyển những thứ nhẹ hơ. Em cứ đứng ngây ở bậc cửa để ngắm nghía được hết mọi thứ vì tất cả đồ đạc của anh đối với em đều lạ lẫm quá, em chưa từng thấy gì tương tự như thế bao giờ; nào hình thánh Ấn độ, nào tượng Ý, nào những bức tranh lớn lộng lẫy, rồi cuối cùng cơ man nào là sách, nhiều quá, đẹp quá đến mức em ko sao tưởng tượng nổi cái gì giống như vậy đưọc. Người ta chất đống tất cả lên bậc cửa và bác hầu phòng lần lượt cầm lấy từng quyển một, thận trọng phủi bụi bằng một cái phất trần. Em tò mò lượn quanh chồng sách cứ cao dần lên; bác hầu phòng ko xua em nhưng cũng ko khuyến khích em, thành thử em ko dám sờ đến quyển nào cả, mặc dầu em rất muốn vuốt ve những tấm bìa da mềm mại của nhiều cuốn trong số đó. Em chỉ nghiêng ghé nhìn được tên sách, một cách sợ sệt, trong đống ấy có những sách bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và những thứ tiếng em ko biết. Em có thể cứ đứng hàng giờ nhưng mẹ em gọi về.


Cả buổi tối em bắt buộc phải nghĩ đến anh, tuy nhiên em chưa hề trông thấy anh. Em chỉ có mươi mười lăm cuốn sách rẻ tiền đóng bìa các-tông đã mòn xơ mà em quý hơn mọi thứ và đọc đi đọc lại không ngừng; từ lúc đó trở đi, một ý nghĩ ám ảnh em là làm sao biết được con người có trong tay và đã đọc hàng ngàn cuốn sách đẹp như thế, con người biết tất cả các thứ tiến ấy, con người vừa giàu có vừa uyên bác ấy. Đối với em, một sự kính trọng siêu phàm gắn liền với cái ý nghĩ về vô vàn cuốn sách đó. Em tưởng tượng anh là một người có tuổi, đeo kính, râu dàu bạc trắng, giống như giáo sư địa lý của chúng em, có điều là đáng yêu hơn, đẹp và hiền dịu hơn; em không hiểu tại sao ngay bấy giờ em đã tin chắc là thế, nhưng nhất định anh phải đẹp, cho dù em có tưởng tượng anh là một ông già chăng nữa. Đêm hôm ấy, chưa biết anh mà em đã mơ đến anh lần đầu.


Ngày hôm sau, anh đến ở hẳn căn phòng, nhưng mặc dù cố công rình ngóng, em vẫn không trông thấy anh; nỗi tò mò của em lại càng tăng gấp bội. Cuối cùng, ngày thứ ba, em thấy anh và nỗi ngạc
nhiên của em mới sâu sắc biết bao khi nhận thấy anh hoàn toàn khác với tưởng tượng của em, không có gì giống với hình ảnh Đức Chúa Cha mà em đã hình dung ra một cách trẻ con! Em đã mơ đến một ông ìa đôn hậu đeo kính, vậy mà anh lại thế này, vẫn hệt như anh bây giờ, anh, con người bất biến mà năm tháng cứ trượt đi không sao phạm tới được! Anh mặc một bộ quần áo thể thao đẹp mê hồn, màu nâu nhạt, và anh chạy thoăn thoắt lên cầu thang, nhanh nhẹn như trẻ con, bao giờ cũng nhảy hai bậc một. Anh cầm mũ trong tay và như thế, với một nỗi kinh ngạc khôn xiết tả, em ngắm bộ mặt đầy sức sống, ngời ngời của anh với mai tóc thanh xuân; quả thực em đã giật thót người vì kinh ngạc khi thấy anh trẻ biết bao, đẹp biết bao, mầm mại, thon thả và tao nhã biết bao. Mà cái đó chẳng có gì là lạ: ngay từ giây phút đầu tiên, em đã cảm thấy rất rõ ràng điều mà mọi người cũng cảm thấy như em khi thấy dáng anh, điều mà người ra hơi ngỡ ngàng cảm thấy theo một cách duy nhất: ở anh, có hai con người, một chàng trai trẻ nồng nhiệt, vui tươi, lao hết mình vào vui chơi và phiêu lưu, và đồng thời, trong nghệ thuật, lại là một tính cách nghiêm túc triệt để, trung thành với phận sự, học rộng và tinh tế vô cùng. Em linh cảm thấy cái mà mọi người đoán ra trước khi biết anh: là anh sống một cuộc sống lưỡng diện, một cuộc sống mà mặt sáng quay thẳng về phía thế gian, trong khi mặt kia chìm trong bóng tối, chỉ có riêng mình anh biết mà thôi. Cái tính chất lưỡng diện sâu sắc ấy, điều bí mật của cuộc đời anh, con bé mười ba tuổi là em lúc bấy giờ, bị anh thu mất hồn, đã cảm thấy ngay từ cái nhìn đầu tiên.


Anh yêu của em, thế là anh đã biết hồi ấy anh là điều kỳ diệu như thế nào với em - phải đối với em, một con bé con. Một con người được kính trọng vì viết sách, vì nổi tiếng rộng rãi trong thế gian - thế ma đột nhiên hiển hiện ra trong dáng nét của một chàng trai tre hai mươi lăm tuổi tao nhã và vui tươi như chú be! Em có phải nói thêm với anh rằng từ hôm đó trở đi, trong ngôi nhà của chúng mình, trong cái thế giới bé con của em, ko còn có gì làm em quan tâm nữa ngoài anh ra, rằng, với tất cả cái bướng bỉnh và dai dẳng thường xuyên ám ảnh của một con bé 13 tuổi, em chỉ còn có một điều lo toan duy nhất: xoay quanh cuộc sống và cuộc đời anh! Em quan sát anh, em quan sát những thói quen của anh, em quan sát những người đến nhà anh, và tất cả những cái đó đáng lẽ làm giảm bớt nỗi tò mò anh đã khơi lên trong em thì lại càng chỉ làm cho nó tăng thêm, bởi vì tính chất lưỡng diện của con người anh hoàn toàn biểu hiện trong đa dạng những cuộc thăm viếng đó, Có những thanh niên, bạn anh, anh cùng họ cười nói rất thoải mái, những sinh viên ăn vận giản dị, rồi lại có những bà đi xe hơi tới, thậm chí một lần có cả ông giám đốc Nhà hát ca kịch - nhà nhạc trưởng lớn mà em thường chỉ trông thấy từ đằng xa, ở giá nhạc của ông ta, mà chỉ nhìn, em cũng thấy lòng tràn đầy kính phục- rồi lại có cả những cô bé còn đi học trường thương mại, luýnh quýnh lướt qua cửa phòng: tóm lại rất nhiều phụ nữ. Đối với em cái đó ko có ý nghĩa gì đặc biệt, thậm chí một buổi sáng, khi đi học, em thấy một bà đeo mạng kín mít ra khỏi phòng anh cũng thế thôi: lúc bấy giờ em mới 13 tuổi đầu và chưa hiểu rằng nỗi tò mò say sưa trong việc rình ngóng anh đã là tình yêu rồi, vì em còn bé quá.


Nhưng anh yêu của em, cho đến hôm nay em vẫn còn nhớ đích xác cái ngày, giờ em đã hoàn toàn và vĩnh viễn gắn bó với anh. Bữa ấy em vừa đi chơi với một con bạn cùng trường về và chúng em đang đứng nói chuyện với nhau trước cửa nhà. Một chiếc xe hơi phóng hết tốc lực đến; xe dừng lại và vói dáng đi nôn nóng, như nhún nhẩy đến bây giờ vẫn làm em say mê rạo rực, anh nhảy từ bậc cửa xuống và đi về phía cửa nhà. Ko biết một sức mạnh vô thức nào đã xui khiến em chạy đến mở cửa cho anh: em giao bước anh và chúng mình gần như va phải nhau. Anh nhìn em bằng cái nhìn ấm áp, dịu dàng và bao bọc như 1 niềm âu yếm; anh mỉm cười với em bằng một nụ cười mà em ko thể gọi là cái gì khác ngoài chữ êm ái và anh nói với em bằng một giọng thanh thanh, gần như thân mật: "Rất cảm ơn cô".


Chỉ có chừng ấy thôi, anh rất yêu thương. Nhưng từ giây phút ấy trở đi, từ khi em cảm thấy cái nhìn dịu dàng và êm ái ấy , em đã hoàn toàn thuộc về anh. Về sau em hiểu ra - hẳn là em cũng sớm hiểu ra điều đó thôi - rằng cái nhìn rạng rỡ ấy, cái nhìn như tạo một luồng nam châm quanh anh đó, cái nhìn vừa như bao bọc lại vùa như lột trần người ta ra, cái nhìn của kẻ quyến rũ bẩm sinh ấy, anh đem phân phát 1 cách hào phóng cho mọi phụ nữ đi qua gần anh, cho mọi cô hầu gái mở cửa cho anh, em đã hiểu ra rằng ở anh cái nhind đó ko có chút gì là ý thức cả, trong đó ko có ý chí mà cũng chẳng có quyến luyến , nhưng sự âu yếm cuả anh đối với nữ giới đã hoàn toàn vô hình trung đem lại cho cái nhìn của anh một vẻ dịu dàng, ấm áp mỗi khi anh hướng mắt về phía họ. Nhưng em - một con bé 13 tuổi - em ko hay biết một tí gì về nét cá tính đó của anh; em chìm vào vào con sông lửa. Em ngỡ là niềm âu yếm đó chỉ dành cho em, cho riêng một mình em thôi, cái giây phút độc nhất ấy cũng đủ biến con bé chưa mãn khai là em lúc đó thành một người đàn bà và người đàn bà ấy đã vĩnh viễn là của anh.

"Ai đấy?" Con bạn em hỏi. Em ko trả lời nó ngay được. Em ko thể nói tên anh ra. Từ cái giây phút đầu tiên, cái giây phút duy nhất ấy, tên anh đã trở thành điều bí mật của em.


"Chậc! Một ông cùng ở trong nhà này" sau đó em ấp úng trả lời một cách vụng về.


"Vậy sao cậu lại đỏ rừ mặt lên khi ông ta nhìn cậu thế?" Con bạn em trêu với tất cả cái tinh ma của một đứa bé tò mò. Và chính vì em cảm thấy sự chọc ghẹo của nó nhằm vào điều bí mật của mình, máu em lại càng dồn lên mặt, nóng bừng bừng. Ngượng quá hoá thô tục, em hét rầm lên một cách man rợ: "Đồ gà mái tây ranh con!" em những muốn bóp cho nó chết ngạt. Nhưng nó lại càng cười già với một vẻ giễu cợt hơn; em tức ứa nước mắt mà ko làm gì được. Em bỏ mặc nó đứng đấy và chạy lên nhà mình. Chính giây phút đó, em đã yêu anh. Em biết rằng các bà, các cô vẫn thường nói với chữ đó, anh, chú bé cưng của họ. Nhưng hãy tin em, chưa ai từng yêu anh mãnh liệt - như một con nô lệ, như một con chó - và tận tâm bằng cái con người lúc đó là em và đến bây giờ, đối với anh, em vẫn nguyên vẹn như là như thế. Trên đời nay, ko có cái gì so được với cái mảnh tình ko ai thấy được của môt con bé thu mình lại trong bóng tối; tình yêu đó rất đỗi vô tư, nhẫn nhục phục tòng chăm chút và say mê đến nỗi ko bao giờ cái tình yêu bằng dục vọng và dù sao cũng nhiều đòi hỏi, của người đàn bà đến độ mãn khai, có thể sánh kịp. Chỉ có những đứa trẻ cô đơn mới có thể giữ gìn cho mình tất cả niềm say mê; những đứa khác phần tránh tình cảm vào những câu chuyện phiếm và làm nó mòn đi trong những cuộc tâm sự; chúng nghe nói nhiều về tình yêu, thấy điều đó trong sách vở và biết rằng đó là một quy luật chung. Chúng chơi đùa với tình yêu như với cái xủng xoẻng, chúng lấy thế làm hãnh diện như một chú bé hãnh diện với điếu thuốc lá đầu tiên. Nhưng em thì chả có ai mà tâm sự, em chả có ai bảo ban, dạy dỗ dè chừng, em chưa từng trải và ngu dốt; em lao đầu vào số mệnh mình như lao xuống một vực thẳm.

(to be continued...)

Tuesday, May 16, 2006

Bức thư của người đàn bà xa lạ - P.1

Writen by Stefan Zweig - Translator: Dương Tường

R., nhà viết tiểu thuyết thời thượng, trở về Viên từ sáng sớm, sau ba ngày đi chơi núi. Ông ta mua một tờ báo ở nhà ga; ông ta chợt nhìn thấy ngày tháng ghi trên báo và bèn nhớ ra rằng hôm nay là sinh nhật mình. Bốn mươi mốt tuổi, ông nghĩ thầm, và ông thấy không vui mà cũng chẳng buồn. Ông giở liên tục những trang báo sột soạt rồi thuê taxi về nhà.

Người hầu, sau khi thưa lại rằng trong khi ông vắng nhà, có hai vị khách đến thăm và mấy người gọi dây nói, mang thư từ giấy má trình ông trên một cái khay. Nhà văn uể oải nhìn những bức thư và bóc mấy cái phong bì mang tên những người ông quan tâm. Mới đầu ông gạt sang bên một bức thư có vẻ quá dày và nét chữ là lạ đối với ông. Trà dọn ra, ông chễm chệ tỳ tay ngồi trên ghế bành, lướt qua tờ báo một lần nữa cùng vài tài liệu in. Cuối cùng ông châm một điếu thuốc lá và cầm lấy bức thư đã gạt sang bên.

Tất cả vào khoảng trên hai mươi trang giấy, viết vội vàng bằng nét chữ xao xuyến của đàn bà, một bản thảo thì đúng hơn là một bức thư. Bất giác ông nắn thử phong bì một lần nữa xem có sót chiếc phiếu gửi nào trong đó không. Nhưng phong bì rỗng không và cũng như những tờ thư, nó không có địa chỉ người gửi hoặc chữ ký nào hết. Thật kỳ lạ, ông ta nghĩ bụng và lại cầm những tờ giấy lên, Như một tiêu đề, trên đầu trang một, có dòng chữ sau đây "Gửi anh, người chưa bao giờ quen biết em". Ông ta dừng lại kinh ngạc. Có phải thư viết cho ông không nhỉ? Hay là cho một người tưởng tượng nào đó? Trí tò mò bừng dậy và ông bắt đầu đọc:

"Con em chết hôm qua; ba ngày ba đêm ròng rã, em đã vật lộn với cái chết để cứu lấy cuộc sống bé bỏng non tơ ấy, suốt 40 tiếng liền, em cứ ngồi ở đầu giường nó, trong khi cơn ốm làm cái thân hình tội nghiệp sốt hầm hập của nó run bắn lên. Em rấp nước trên trán bỏng giãy, cả ngày đêm, em nắm lấy đôi bàn tay nhỏ xíu run rẩy của nó. Đến tối hôm thứ ba thì em kiệt sức. Mắt em ko cưỡng nổi, cứ díp lại lúc nào ko biết. Thành thử em ngủ thiếp đi trên ghế 3,4 tiếng đồng hồ và trong thòi gian đó, thần chết đã cướp con em đi mất. Bây giờ, nó nằm đây, thằng bé tội nghiệp thân yêu, trong cái giường con nít chật hẹp, y nguyên như lúc nó chết; có điều là người ta đã vuốt mắt cho nó, đôi mắt đen sẫm tối và thông minh của nó; người ta đã đặt hai tay nó chắp lên trên chiếc sơ mi trắng và bốn ngọn bạch lạp đang cháy le lói ở 4 góc giường.

Em ko dám nhìn, em ko dám đụng đậy, bởi vì hễ ánh sáng lúng liếng đi thì những vệt bóng lại lướt trên mặt nó và em tưởng như nét mặt nó hoạt động và em có thể ngỡ rằng nó ko chết, rằng nó sắp sửa thức dậy , cất cái giọng trong trẻo nói với em vài lời âu yếm trẻ thơ. Nhưng em biết, nó chết rồi, và em ko muốn nhìn để khỏi tiếp tục hy vọng và để khỏi phải thất vọng một lần nữa. Em biết, em biết lắm, con em đã chết hôm qua; bây giờ em chỉ còn có mình anh trên đời, chỉ còn mình anh, mà anh thì ko biết gì về em và có lẽ giờ đây đang vui chơi ko hay ko biết gi hết, hoặc đang tiêu khiển với mọi người mọi vật. Em chỉ có anh, anh, người chưa từng bao giờ biết đến em, người mà em yêu suốt cả cuộc đời.

Em lấy cây nến thứ năm và em đặt nó lên bàn nơi em ngồi viết cho anh. Bởi vì em ko thể ngồi một mình với đứa con chết mà ko kêu lên bằng cả tâm hồn, và, vào cái giờ khủng khiếp này, em còn biết nói với ai, nếu ko nói với anh, người đã từng là tất thảy đối với em và hiện vẫn là tất thảy đối với em?

Em ko hiểu em nói thế có rõ ko, có thể anh ko hiểu em chăng? Đầu em nặng trịch; hai thái dương em đập dồn và ong ong; chân tay em ê ẩm. Em cho là em bị sốt; và có lẽ lại cúm cũng nên, bệnh cúm hiện đang lảng vảng ở cửa nhà này sang cửa nhà nọ, và nếu thế thì càng hay, vì em sẽ đi với con em và ko bắt buộc phải cố gắng tự chủ nữa. Luôn luôn có một tấm màn sẫm tối lướt qua trước mắt em; có lẽ em sẽ ko đủ sức viết hết bức thư này đâu; nhưng em muốn thu thập hết sức lực của mình lại để nói chuyện với anh một lần, chỉ một lần này thôi, anh vô vàn thương yêu, người chưa từng bao giờ biết đến em.

Em chỉ muốn nói với riêng mình anh thôi, chính anh là người đầu tiên em sẽ tâm sự hết mọi chuyện: anh sẽ biết hết cuộc đời em, cái cuộc đời xưa nay vẫn là của anh mà anh chẳng hay biết một tí gì cả. Những điều bí mật của em, anh sẽ chỉ biết khi nào em chết rồi, khi nào anh sẽ không phải trả lời em, khi nào mà cái đang làm cho chân tay em vừa lạnh giá vừa nóng hừng hực, sẽ dứt khoát mang em đi vĩnh viễn. Nếu em sống sót, em sẽ xé bức thư này đi và em sẽ tiếp tục im lặng như ngày xưa em vẫn im lặng. Nhưng nếu thư này đến tay anh thì anh sẽ biết rằng một người đàn bà đã chết kể chuyện đời mình với anh, cái cuộc đời vốn là của anh từ giờ đầu tiên cho đến giờ chót còn tỉnh táo của cô ta. Anh đừng có sợ những lời em nói: một người đàn bà đã chết không còn đòi hỏi gì nữa hết; cô ta không đòi hỏi tình yêu, không đòi hỏi thương hại, cũng không đòi an ủi. Điều duy nhất em xin anh, là anh hãy quên tất cả những gì mà nỗi đau em đang tìm phương ẩn náu nơi anh, sắp bộc lộ ra đây. Hãy tin tất cả những lời em nói, đó là lời cầu xin duy nhất của em đối với anh: người ta không nói dối vào cái giờ đứa con độc nhất của mình chết.

Em muốn bộc bạch với anh về cả cuộc đời em, cái cuộc đời chỉ thực sự bắt đầu từ ngày em biết anh. Trước đó, nó chỉ là cái gì mập mờ và hỗn độn mà ký ức của em không bao giờ quay trở lại; nó giống như một cái hầm tối, trong đó bụi và mạng nhện phủ đầy lên những đồ vật và những con người đường nét mờ ảo không còn để lại chút gì trong trái tim em nữa. Khi biết anh, em mới mười ba tuổi và ở cùng ngôi nhà hiện anh vẫn đang ở, ngôi nhà trong đó anh đang cầm trên tay lá thư này, chút hơi thở cuối cùng của đời em, em ở cùng một tầng gác, ngay trước cửa phòng anh đó. Chắc chắn anh chẳng còn nhớ gì về gia đình em nữa, về người vợ goá tội nghiệp của một công chức sở tài chính (bao giờ cũng mặc đồ tang) và đứa con gái gầy gò thân hình chưa phát triển là em hồi bấy giờ; mẹ con em sống ru rú trong cái xoàng xĩnh của loại người nghèo hèn. Có lẽ anh chẳng bao giờ biết họ tên mẹ con em bởi vì trên cửa nhà em không hề có biển đề tên, chẳng có ai đến chơi nhà em, chẳng có ai đến hỏi mẹ con em. Thuở đó, xa xăm lắm, mười lăm mười sáu năm rồi. Chắc chắn anh chẳng còn nhớ nữa, anh yêu thương của em nhưng em thì chao ôi! Em nhớ đến mơ cuồng từng chi tiết nhỏ nhất: em vẫn còn đinh ninh, như mới hôm qua, cái ngày thậm chí cả giờ phút mà em được nghe nói đến anh lần đầu, được trông thấy anh lần đầu và làm sao có thể khác được hả anh bởi vì chính đó là lúc mà cả vũ trụ mở ra đối với em? Anh yêu, cho phép em kể lại với anh tất cả, phải, tất cả từ đầu đến cuối; em van anh, hãy rủ lòng đừng mệt mỏi vì phải nghe em kể về em trong mười lăm phút đồng hồ, em, người đã suốt một đời yêu anh không biết mệt mỏi.

(to be continued...)

Monday, May 15, 2006

một ngày không net…


By Nguyễn Vĩnh Nguyên – From “Giỡn với số”

Một tờ báo học trò đã đặt ra câu hỏi: Bạn sẽ thế nào nếu một ngày không có internet?

Cách đây năm năm, tôi trả lời: - Chẳng “xi-nhê”!

Thế nhưng hiện tại, tôi có thể tuyên bố ngay: - Đó là ngày thế giới sống của tôi mất đi một nửa! Hỏi thêm: Nửa ấy là gì? Trả lời: Đó là một thực tại khác!

Hằng ngày, trên thế giới, hàng tỉ forum, cuộc hẹn hò và hàng tỉ tỉ thông tin được truyền tải, truy cập trên mạng. Ngoài chốn cư ngụ đời thực, chúng ta còn một miền quê khác.

Chỉ cách đây chục năm, bộ phim Cô bé Maika được tuổi thơ thế hệ 7X (những người sinh trong những năm 1970) chúng tôi đón nhận nồng nhiệt. Phim đơn giản: con bé Maika là một người hành tinh khác đi chơi và lạc xuống trái đất. Nó có những năng lực mà người trái đất phải “bó tay” như: có thể nhìn và “truy cập” thông tin về người khác bằng đôi mắt đặc biệt, có thể trò chuyện với người ở xa bằng một hệ thần kinh thông thái… Chưa xa, anh chàng Đôrêmon bước ra từ những trang truyện tranh với những cỗ máy thời gian, bộ máy nhớ khổng lồ… vẫn còn dư âm trong tâm hồn những tuổi thơ thế hệ 8X. Vậy mà…

Bạn sẽ bảo: Xưa rồi diễm ơi! Thời bây giờ cần thông tin, tôi chỉ gõ từ khoá vào Yahoo search, Google… là có thể truy tận đến từng sợi tóc của thế giới cũng không thoát. Cần lưu giữ thông tin, của cải tài khoản trên mạng, cũng Ok luôn! Không có gì khó. Khi mạng trở thành một thế giới để người ta buôn bán, giao lưu học hỏi và sống đúng nghĩa. Ở đó, mỗi ngày con người thế giới xây hàng tỉ tỉ ngôi nhà và… định cư.

Trở lại với câu hỏi: - Nếu một ngày không có internet, bạn sẽ thế nào? Thế hệ trước có người còn bảo: Chẳng sao cả, mừng nữa là khác, vì bọn trẻ đỡ phải chat chit phiền toái. Nhưng người trẻ thì bảo, một ngày không có internet là một ngày ngôi nhà, quê nhà của tôi bị… đóng cửa!

Ờ… để coi. Lúc đọc cái tạp văn ngắn tủn này vừa đọc vừa cười tủm tỉm. Sao mà giống mình thế nhỉ! Hihi… Nếu không thế thì đã chẳng 3 lần 5 lượt tìm đủ cách “cai net” là gì. Từ nhẹ nhàng tắt máy, tập đi ngủ sớm. Rồi mạnh hơn: cắt phone line ra khỏi phòng 1 thời gian. Và thậm chí đâu phải chưa từng có chuyện suốt thời gian dài không hề đụng tới cái PC. Nhưng phàm nếu nó đơn giản thế, chỉ là tắt béng đi cái PC thì đã chẳng cần phải tốn nhiều công sức rồi. Thôi thì… sống chung với net vậy…

Sunday, May 14, 2006

save & delete

By Nguyễn Vĩnh Nguyên - From "Giỡn với số"

1.
Mobile với tôi, có khi như một người ban hiểu cả những trò nhớ, quên có khi là một phương tiện lạnh lùng đem lại một số rắc rối không nhỏ trong đời sống.

… Bắt đầu từ cái danh bạ với những tên quen, tên lạ. Tôi có thói quen sau một vài tháng lại ngồi rà lại danh bạ trong mobile. Đó cũng là một cái thú, hay có khi là một trò thách thức trí nhớ. Những cái tên sẽ gắn với những ấn tượng, nỗi nhớ hay một hình dung về con người nào đó. Một cái tên và một con số có khi nhắc nhớ, nhưng có khi lại là sự lãng quên và bất lực của trí óc hằng ngày vẫn nạp vào quá nhiều thứ, ngồn ngộn thông tin đời sống này…

Rà số. Có những cái tên, con số lắm khi muốn quên cũng khó mà quên. Có những cái tên huy động hết cỡ những “nơ-ron thần kinh nhớ” mà vẫn thấy lạ hoắc. Mình tự hỏi không biết con người mang cái tên này là ai? Quen lúc nào? Ở đâu? Trong hoàn cảnh gì? Có những cái tên mình lưu vào và chẳng bao giờ liên lạc. Mình quên con người ấy, mà cái tên, con số người ta vẫn nằm lù lù trong danh bạ. Rõ ràng là chẳng có nhu cầu liên lạc…


Để nhẹ máy, nhiều khi phải làm cái việc là nằm “duyệt lại”, xoá bớt một vài cái tên trong danh bạ.


2.
Trong những cuộc đàn đúm bạn bè cho đến giao thiệp làm ăn, hằng ngày xảy ra rất nhiều quan hệ từ sơ giao đến thâm giao. Có cả kiểu người gặp nhau từ lâu thì sơ giao vẫn cứ sơ giao. Có loại người gặp nhau một lần đã là thâm giao như từ kiếp trước. Cũng tuỳ cái duyên. Sau những màn bắt tay làm quen làm quen nhau, cái cảm xúc “chiến hữu” tứ hải giai huynh đệ, cảm xúc tình thân dâng trào ngùn ngụt, ta không quên rút mobile ra: “Cho tôi xin số phone anh đi?”. “OK! Ghi đi nào…(090)8130… Ghi rồi nhá sang số tôi để anh em còn liên lạc với nhau...”. Ra về bắt tay lại lần nữa, không quên chua theo một câu: “Nhớ liên lạc thường xuyên đấy nhé!”. Vậy đó. Danh bạ lại có thêm một, hai, ba và nhiều con số, cái tên đại loại như thế. Rồi sau đó, vì nhiều môi trường hoàn cảnh làm việc, thời gian làm nguội đi cảm xúc tâm giao ngẫu hứng để rồi xoá trắng trí nhớ như chẳng hề gặp nhau.

Công việc nườm nượp, thời gian lũ lượt qua, rồi tôi cũng quên béng đi con người “thâm giao” bất chợt kia…

Thế rồi có ngờ đâu, một ngày nào đó, mobile của tôi có tin nhắn, báo rằng: Anh còn nhớ tui không? Anh khoẻ không? Công việc thế nào? Tin nhắn rõ thân thiện. Nhưng nhìn một dãy số lạ hoắc, cái tên lạ hoắc, “khổ chủ” có khi lại choáng và bắt đầu lo lắng không biết có lúc nào đó ngồi xoá nhầm, nhỡ tay delete tên của “chiến hữu”. Nhưng rồi chẳng sao. Nếu không đủ can đảm nhận chuyện lỡ tay delete mất tên thì cứ viện cớ là mất sim, mobile… Vì đã nhiều lần, ta tự đấm ngực trách mình tồi tệ vì có khi lại quên ghi hay vô tình, delete số máy người thân, bạn bè. Những tin nhắn đại loại: “Cám ơn. Nhưng xin lỗi, bạn là ai?” được gởi đi lạnh lùng từ người gởi và thường chẳng mảy may thân thiện gì lắm cho người nhận. Nhiều trách móc hay những hiểu lầm về tình cảm cũng từ đó mà ra…


3.

Kẻ “tin nhắn tặc” như tôi, mỗi ngày gởi không biết bao nhiêu tin nhắn, quấy rầy hết người này đến người khác. Sau mỗi tin nhắn, tôi thản nhiên delete những tin đã gởi. Và cũng vì sợ bộ nhớ của mobile nặng, tôi phải thỉnh thoảng xoá bớt những tin nhắn cũ cởi đến còn lưu trong máy của mình. Thế rồi một hôm, thằng tôi vô tư nhận lại từ số máy của một cô gái nào đó những tin nhắn true ghẹo mà chính mình đã soạn, gởi đi từ lâu. Ô, thì ra, lâu nay những tin nhắn bông phèng ấy có khi vô tình làm cho một ai đó vui, hay buồn, hy vọng hay ngộ nhận. Rồi thì những điều vui, buồn ấy được lưu lại y chang, chính xác đến từng dấu chấm, dấu phẩy… để rồi, một hôm nào đó, đùng đùng nó nhảy lên trên mobile của ta cùng cái mở ngoặc đơn ghi chú ngày giờ gởi tin, soạn tin. Thật chết khiếp. Ủa, tại sao lúc ấy mình lại nói như thế nhỉ? Tại sao câu nói vô tình như thế lại gây ra những phản ứng phụ ngoài tầm kiểm soát thế nhỉ?...

Ít ra, những tin nhắn phản hồi từ dạng này luôn làm mình trằn trọc. Trằn trọc về kẻ ngộ nhận và cả thao thức tự vấn về những tội lỗi tày đình của mình!


4.

Vui thì không nói. Giận nhau, có khi tôi phải rút điện thoại ra, xóa số nàng cho lại gan. Xoá số tức là bỏ nhau, chẳng còn gì nữa, chẳng hy vọng biết chừng nào gặp lại. Rất căng thẳng. Ta đã dặn lòng là có khi không chủ động liên lạc nữa. Nhưng rồi, đâu có yên. Khổ nỗi, tuy đã delete trong máy rồi nhưng lại thấy có một ổ nhớ khó xoá nổi, nằm trong… đầu óc mình. Hơn bao giờ hết, ta lại đặt chuyện save hay không save?! Delete hay không delete? Cứ như thế, ta nhập tên bao nhiêu lần, save số bao nhiêu lần và delete bao nhiêu lần. Thật kỳ quặc.

Có lắm khi, đầu óc nhớ vanh vách số máy của một ai đó… Đã bảo mà. Cái bộ nhớ trong đầu mình lúc này lạnh lùng kinh khủng. Muốn quên mà nó đâu có chịu quên cho…


5.

– Save hay Delete?
– Cứ thế, cứ thế, mobile – như người bạn nhỏ cứ chứng kiến cái hữu tình, vô tình của tôi, từng ngày…