Sunday, April 22, 2007

Chàng Đỏ - Somerset Maugham (1)

Viên thuyền trưởng thọc tay vào một bên túi quần với vẻ khó khăn, vì nó không nằm ở bên sườn mà lại ở đằng trước, đã thế gã lại to béo; gã rút ra chiếc đồng hồ to bằng bạc. Gã nhìn đồng hồ rồi lại nhìn lên mặt trời đang xé. Anh chàng người Kanaka ở mạn trái đưa mắt nhìn viên thuyền trưởng, nhưng không nói gì. Mắt viên thuyền trưởng dừng lại ở hòn đảo mà họ đang tiến lại gần. Một vệt bọt trắng ghi dấu đá ngầm. Đã biết rằng chỗ này có một khe nước đủ rộng cho con tàu đi qua, khi họ tới gần hơn, gã tính sẽ trông thấy. Họ còn có gần một tiếng nữa trước khi mặt trời lặn. Trong vịnh nước sâu, họ sẽ có thể thả neo thoải mái. Hương trưởng làng mà gã nhìn thấy giữa đám cây dừa kia là bạn của viên thuyền phó, lên bờ một đêm cũng dễ chịu. Viên thuyền phó tiến về phía trước và đúng lúc ấy viên thuyền trưởng quay về phía anh ta.

- Ta sẽ làm một chai rượu và rủ dăm cô gái lên nhảy, - gã nói.

- Tôi chẳng thấy khe nước đâu, - viên thuyền phó đáp.

Anh ta người Kanaka, đẹp trai, da ngăm đen, nom phần nào từa tựa như một Hoàng đế La Mã hậu sinh, đang đà chắc mập; nhưng khuôn mặt mịn màng và nhẵn nhụi.

- Tôi cầm chắc là nó ở ngay đây thôi, - viên thuyền trưởng vừa nói vừa nhìn qua cặp kính. - Tôi không hiểu tại sao ta lại không nom thấy. Thử cho một đứa trèo lên cột buồm ngó xem sao.


- Thuyền phó gọi một thủy thủ đế và ra lệnh. Viên thuyền trưởng dõi theo anh chàng thủy thủ người Kanaka leo lên và chờ anh ta báo. Nhưng anh ta nói vọng xuống là anh ta không trông thấy gì ngoài cái vệt bọt kia. Viên thuyền trưởng nói tiếng Xamoa như một thổ dân, gã chửi tục một các thoải mái.

- Cho nó ở trên ấy nữa hay không? - Viên thuyền phó hỏi.

- Ở trên ấy làm mẹ gì nữa? - Viên thuyền trưởng đáp. - Cái đồ ngốc nghếch chết tiệt ấy làm sao mà thấy được cái gì. Đánh cuộc với ông là thể nào tôi cũng tìm được cái khe nước nếu tôi lên trên ấy.

Gã tức giận nhìn cái cột buồm thanh mảnh. Thật rất hợp với một đứa thổ dân vốn vẫn quen trèo dừa suốt đời. Còn gã thì béo và nặng nề.

- Xuống đi, - gã kêu to. - Mày chẳng tích sự gì hơn đồ chó chết. Ta đành phải đi dọc dãy đá ngầm đến bao giờ tìm được khe nước mới thôi.

Đó là một chiếc tàu buồm bảy mươi tấn có động cơ chạy bằng paraphin. Khi không có gió ngược, nó chạy quãng bốn năm dặm một giờ. Chiếc tàu đã cũ được sơn trắng từ dạo lâu lắm rồi, nay nó vừa bẩn, vừa dơ, lốm đốm những vết. Nó sặc mùi paraphin và mùi dừa khô là thứ hàng chở thường xuyên. Họ chỉ còn cách dãy đá ngầm một trăm bộ và viên thuyền trưởng bảo người lái chạy men theo đá ngầm cho đến khi tới khe nước. Nhưn khi đã đi được một vài dặm, anh ta mới nhận ra là đã mất dấu. Anh ta trở buồm và từ từ cho lui lại. Bọt trắng của đá ngầm tiếp nối không hề đứt đoạn, và lúc này mặt trời đang lặn. Chửi cho sự ngu ngốc của kíp thủy thủ một câu, viên thuyền trường đành chịu đợi cho đến sáng hôm sau.

- Xoay buồm lại, - gã nói. - Làm sao bỏ neo ở đây được.

- Họ lại quay ra khơi chút ít, và giờ trời đã tối hẳn. Họ bỏ neo. Khi buồm đã cuộn, con tàu bắt đầu lắc lư mạnh. Ở Apia người ta nói rằng một ngày kia thể nào nó cũng lắc lư đến lật thì thôi; còn người chủ, một người Mỹ gốc Đức cai quản một trong những cửa hiệu lớn nhất thì bảo có các bao nhiêu tiền, anh ta cũng không chui vào cái tàu này. Anh bếp, người Trung Quốc mặc cái quần trắng, chạy ra nói là bữa ăn đã sẵn sàng; và khi viên thuyền trưởng bước vào ca bin, gã đã thấy người thợ máy ngồi ở bàn. Anh thợ máy người dài, gầy với cái ổ ngẳng. Anh ta mặc bộ quần áo làm việc màu xanh lơ và cái áo len cộc tay để lộ ra cái cẳng tay khẳng khiu xăm từ khuỷu đến cổ tay.

- Bố sư khỉ, phải ngủ đêm ngoài biển mất thôi, - viên thuyền trưởng nói.

Người thợ máy không trả lời, và họ ăn trong sự im lặng. Cabin được soi sáng bởi một ngọn đèn dầu tù mù. Khi họ ăn hết món mơ hộp cuối mỗi bữa ăn, thì anh bếp bưng một tách trà vào. Viên thuyền trưởng đốt điếu xì gà và bước lên boong trên. Hòn đảo bây giờ chỉ là một khối đen sẫm trong đêm. Những vì sao rất sáng. Âm thanh suy nhất là tiếng sóng cồn vỗ không dứt. Viên thuyền trưởng thả người xuống một chiếc ghế và uể oải hút thuốc. Rồi có ba bốn thủy thủ tiến đến và ngồi xuống. Một người có cây đàn băng-giô và một người khác có một chiếc côngxéctina (1) . Họ dạo nhạc, và một người cất tiếng hát. Bài hát thổ dân vang lên một cách lạ lùng trong âm hưởng của những nhạc cụ kia. Rồi một cặp bắt đầu nhảy theo tiếng hát. Một vũ điệu dã man, nguyên thuỷ, hoang sơ, dồn dập, với những động tác mau lẹ của tay chân và sự uốn éo của thên hình: một điệu nhảy nhục cảm, thậm chí còn xác thịt, xác thịt mà thiếu dục vọng. Nó rất thú vật, rạch ròi, kỳ quặc mà không thần bí, tóm lại là tự nhiên gần như có thể gọi là trẻ con. Cuối cùng họ thấm mệt. Họ nằm ngả trên boong và ngủ, mọi vật đều yên lặng. Viên thuyền trưởng nặng nề nhấc thân mình khỏi ghế ngồi và lồm cồm bò qua một bạn đồng hành. Gã đi vào cabin và cởi quần áo ra, lên giường nằm. Gã thở hổn hểnh trong cái nóng của đêm.

Sáng hôm sau, khi hừng đông bò lên trên mặt biển êm lặng, khe nước giữa đá ngầm lẩn khỏi mắt họ đêm trước giờ đã hiện ra chênh chếch một chút về phía đông của nơi họ đậu. Chiếc tàu buồm tiến vào vịnh. Không có lấy một gợn sóng trên mặt nước. Sâu dưới những tảng đá san hô người ta thấy cá con đủ các màu bơi lượn. Khi đã thả neo đâu vào đấy, viên thuyền trưởng ăn bữa sáng và đi lên boong. Mặt trời toả chiếu trên bầu trời không mây, nhưng vào buổi sáng sớm thế này, không khí mát mẻ và dễ chịu. Hôm đó là ngày chủ nhật nên có một cảm giác tĩnh tại, yên ắng, như thể thiên nhiên đã đi nghỉ, điều ấy tạo cho gã một vẻ khoan khoái đặc biệt. Gã ngồi nhìn bờ cây um tùm, cảm thấy biếng nhác và thư thái trong lòng. Ngay sau đó có một nụ cười chậm rãi làm động đôi môi gã, gã ném mẩu xì gà xuống nước.

- Ta phải lên bờ mới được, - gã lên tiếng. - Cho thuyền ra nào!

Gã vụng về trèo xuống thang và chiếc thuyền chèo vào ngách vịnh con con. Những cây dừa tiến sát xuống tận mép nước, không thành hàng, mà dàn ra với một nghi thức định sẵn. Nom chúng giống vũ điệu ba-lê của các bà cô không chồng, tuổi đã lớn nhưng vẫn lả lơi, làm điệu làm bộ với vẻ duyên dáng màu mè của một thời đã trôi qua. Gã khệnh khạng đi qua đám dừa, dọc theo con đường trông rõ nét uốn lượn quanh co, chẳng mấy chốc nó dẫn gã tới một con lạch rộng. Một cái cầu bắc qua, làm bằng những thân cây dừa có khoảng một tá thân cây thành hàng một, đặt nối đầu với nhau và ở giữa chỗ nối được đỡ bằng một cây chạc cắm xuống lòng lạch. Bạn phải bước trên một bề mặt tròn, nhẵn, lại hẹp và trơn, mà không có tay vịnh. Để qua cái cầu như thế đòi hỏi phải có một đôi chân chắc chắn và một con tim vững vàng. Viên thuyền trưởng ngập ngừng. Nhưng gã trông thấy bờ bên kia, nép dưới bóng cây là một ngôi nhà của người da trắng; gã quả quyết, và khá là rón rén, gã bắt đầu bước đi. Gã quan sát đôi chân cẩn thận, và mỗi khi gặp một chỗ nối thân cây mấp mô, gã hơi loạng choạng. Với tiếng thở phào nhẹ nhõm, gã đã đi tới cái cây cuối cùng và sau rốt đặt được chân lên nền đất cứng của bờ bên kia. Gã để tâm chăm chú vào việc qua cầu khó khăn này, nên không nhận thấy có người quan sát gã, và thật là ngạc nhiên khi gã nghe tiếng người nói với mình.

(1): một loại nhạc cụ nhỏ kiểu acocđêông, có nút ấn và dải xếp nếp

To be continued...

No comments: