- Người ta bảo bên Mỹ bây giờ có nhiều cocain lắm. - Viên thuyền trưởng nói.
Ninxơn cười thành tiếng.
- Nhưng tôi có hay gặp người da trắng đâu nhỉ, - ông nói tiếp, mà chỉ một lần thì tôi nghĩ mấy giọt uytki cũng chẳng gây hại gì cho tôi.
Ông bèn rót cho mình một ít, cho thêm chút xô-đa rồi làm một hớp.
- Thế rồi chẳng bao lâu tôi mới vỡ lẽ ra tại sao cái nơi này lại có một vẻ đáng yêu thần tiên làm vậy. Ở đây tình yêu đã lưu lại trong khoảnh khắc như con chim di cư tình cờ gặp một con tàu giữa đại dương, và trong chốc lát nó cụp đôi cánh rã rời lại. Cái đam mê đẹp đẽ hiện rành rành ra và hương vị của một mối tình đằm thắm còn phảng phất quanh đây giống như hương sơn trà tháng năm trên đồng cỏ quê tôi. Tôi thấy hình như những nơi mà ta đã từng yêu thương hay đau khổ đều để lại ít hương vị man mát nào đó không bao giờ tan đi hoàn toàn. Như thế chúng đã giành được một ý nghĩa tinh thần mà nó tác động một cách bí ẩn lên những kẻ đã trải qua. Ước gì tôi có thể làm sáng tỏ ý mình được nhỉ. - Ông hơi mỉm cười - Dầu tôi không dám nghĩ nếu tôi có nói được hết ý mình thì chắc gì ông đã hiểu.
Ông ngừng lời.
- Tôi nghĩ chỗ này đẹp, bởi vì ở đây tôi đã được yêu một cách đẹp đẽ. - Nói rồi ông nhún vai. - Nhưng có lẽ chỉ là tại cái cảm quan mỹ học của tôi được sự kết hợp may mắn của tình yêu tươi trẻ và một khung cảnh thích hợp ban thưởng cho.
Ngay một kẻ không đến nỗi ù lỳ như gã thuyền trưởng chắc cũng được tha thứ, nếu như anh ta có hoang mang trước những lời nói của Ninxơn. Vì hình như ông có hơi cười nhẹ những điều mình nói, Dường như lời ông nói xuất phát từ cái cảm xúc mà lý trí ông thấy nực cười. Ông tự nhận mình là một người đa cảm, mà khi tính đa cảm gắn với sự hoài nghi thì chỉ đẻ ra lắm chuyện oái oăm.
Ông yên lặng một lát và nhìn viên thuyền trưởng bằng cặp mắt trong đó toát ra sự ngỡ ngàng đột ngột.
- Ông này, tôi không thể không nghĩ là đã trông thấy ông ở đâu đó trước kia, - ông nói.
- Tôi không thể nói là tôi có nhớ gặp ông hồi nào, - viên thuyền trưởng đáp lại.
- Tôi có cảm giác ngồ ngộ là hình như khuôn mặt ông rất quen đối với tôi. Nó làm tôi băn khoăn mất một lúc. Nhưng tôi không tài nào lục được trong trí nhớ ra là đã gặp ở chỗ nào hay là vào lúc nào.
Viên thuyền trưởng nhún đôi vai nặng nề.
- Đã ba mươi năm rồi kể từ khi tôi lần đầu tiên bước lên trên những hòn đảo này. Người ta không tài nào ghi nhớ hết những người đã gặp gỡ trong giây lát thế này.
Người đàn ông Thụy Điển lắc đầu.
- Ông có biết đôi khi người ta có cảm tưởng là một nơi anh ta chưa hề đến lần nào trước kia lại quen thuộc đến lạ lùng không? Cũng như tôi có cảm tưởng nhìn thấy ông đây, - ông nở một nụ cười kỳ dị. - Có lẽ , có lẽ ông là chủ một chiếc thuyền galê (1) thời La Mã cổ đại, còn tôi là cái anh nô lệ chèo thuyền. Ông ở đây đã ba mươi năm?
- Lác đác suốt ba mươi năm.
- Thế ông có biết một người đàn ông tên là Chàng Đỏ không?
- Chàng Đỏ?
- Đấy chỉ là cái tên mà tôi biết về anh ta. Bản thân tôi chưa được biết anh ta. Tôi chưa được thấy anh ta tận mắt, ấy thế nhưng hình như tôi thấy anh ta còn rõ hơn nhiều người khác, chẳng hạn rõ hơn anh em tôi, những người tôi đã cùng sống hàng ngày trong bao nhiêu năm. Anh ta sống trong tâm tưởng tôi rõ nét như một Paolô Malatexta (2) hay một Rômeô (3). Mà không rõ đã có khi nào ông đọc Đăngtơ hay Sếchxpia chưa nhỉ?
- Tôi không thể bảo là tôi đã đọc rồi, - viên thuyền trưởng nói.
Ninxơn, miệng ngậm điếu xì gà, ngả người ra ghế lơ đễnh nhìn cuộc khói thuốc đang bơi trong không gian tĩnh lặng. Một nụ cười giỡn trên môi, nhưng cặp mắt ông vẫn nghiêm nghị. Rồi ông nhìn sang viên thuyền trưởng. Trong sự phì nộn thô thiển của gã có vẻ gì đó tơm tởm khác thường. Gã có cái vẻ thừa mứa mãn nguyện trong chính lớp mỡ béo. Thật là một sự lăng mạ. Nó đẩy thần kinh Ninxơn đến giới hạn chịu đựng. Nhưng sự tương phản giữa kẻ ngồi trước ông và kẻ nằm trong trí óc ông thật thú vị.
- Có vẻ như Chàng Đỏ là một anh chàng duyên dáng nhất mà người ta gặp được. Tôi đã chuyện trò với một số người biết anh ta hồi đó, những người da trắng ấy mà, và họ đều đồng ý là nếu anh trông thấy anh ta lần đầu tiên thì vẻ đẹp của anh ta hẳn sẽ làm anh sửng sốt. Người ta gọi anh ta là Chàng Đỏ là do bộ tóc rực lửa của anh ta. Bộ tóc ấy lượn sóng tự nhiên và được để dài. Nó chắc phải có cái sắc màu tuyệt diệu mà các nhà tiền Raphaen (4) vẫn nháo nhào tìm kiếm. Tôi nghĩ anh ta không ngạo mạn vì bộ tóc ấy, anh ta quá chân thật, nào biết đến sự ngạo mạn, nhưng nếu có đi nữa, thì cũng không ai trách anh ta được. Anh ta cao sáu bộ, một hai insơ gì đó. Trong gian nhà thổ dân trước ở chỗ này có vết đánh dấu chiều cao anh ta bằng dao ở cái cột chống mái chính giữa ấy - an ta được tạo nặn như một thánh thần Hy Lạp vai rộng và sườn mảnh; anh ta giống như thần Apôlô với cái vẻ tròn trịa mềm mại mà Praxiten (5) đã đắp nên, với cái vẻ yêu kiều hồn nhiên của thanh nữ ấp bên trong một cái gì xáo động huyền bí. Da anh trắng phau, mịn màng như xa-tanh, như da dẻ phụ nữ vậy.
- Tôi cũng có làn da trắng hồi còn bé, - viên thuyền trưởng nói, cặp mắt vằn tia máu ánh lên.
Nhưng Ninxơn không chú ý gì đến gã. Ông đang đà kể chuyện nên sự cắt ngang làm ông sốt ruột.
- Mặt anh ta cũng đẹp như thân hình anh ta. Anh ta có cặp mắt to màu xanh, rất thẫm, đến nỗi có người bảo là màu đen, và không giống với đa số những người tóc đỏ, anh ta có hàng lông mày sẫm, lông mi cũng sẫm và dài. Đường nét anh ta đều đặn đến hoàn hảo, và miệng thì như một vết thương đỏ chói. Anh ta mới hai mươi tuổi. - Nói đến đây người đàn ông Thụy Điển dừng lại với một cảm giác lâm ly nào đó. Ông uống một hớp uytki.
- Anh ta thật là có một không hai. Chưa bao giờ có ai đẹp hơn được. Chẳng khác nào một bông hoa tuyệt vời nở trên cái cây hoang dại. Anh ta là sự ngẫu hợp tài tình của tự nhiên.
Một hôm anh ta đã cập vào chính cái vịnh mà chắc ông đã vào sáng nay. Anh ta là thủy thủ Mỹ, đào ngủ khỏi một chiếc tàu chiến ở Apia. Anh ta đã thuyết phục được một số thổ dân dễ tính cho đi nhờ trên một chiếc ca-nô vẫn hay chạy từ Apia đến Xaphôtô và được đưa lên bờ bằng xuồng độc mộc. Tôi không rõ tại sao anh ta lại đào ngũ. Có thể cuộc sống trên chiếc tàu chiến với những kỷ cương của nó khiến anh ta chán ngán, có thể anh ta có chuyện gì không hay, cũng có thể vùng biển Nam này và những hòn đảo thơ mộng kia đã thấm đậm vào tâm can anh ta. Lắm khi cái cảnh vật ấy nó chộp lấy con người ta một cách lạ lùng, và anh bỗng thấy mình như con ruồi mắc trong cái mạng nhện. Chắc là trong gân cốt anh ta có một sự mềm yếu nào đó và những ngọn đồi xanh mát này, với không khí mềm dịu, và biển xanh này đã rút mất ở anh ta cái sức mạnh phương bắc như Dêlila rút của anh chàng người Nazarit (6). Dù thế này hay thế khác, anh ta muốn trốn đi và đã nghĩ rằng sẽ an toàn ở cái xó hẻo lánh này cho đến khi tàu của anh ta rời Xamoa.
(1): một loại thuyền buồm dài, thấp có dãy mái chèo thường do nô lệ chèo thời cổ.
(2): nhân vật Hài kịch thánh thần của Đantê, Paolô say đắm vợ của người anh Giôvanni của mình là Phranxexca và cả hai bị Giôvanni giết chết.
(3): nhân vật trong bi kịch Romeo và Juliet của Sếchxpia, thi hào Anh (1564-1616). Hai người yêu nhau tha thiết và thà cùng chết với nhau hơn là sống lẻ loi và được coi là một cặp tình nhân lý tưởng.
(4): hội viên của hội Tình anh em tiền Raphaen - Proraphaelite Brotherhood - thành lập năm 1848 ở Anh - có tôn chỉ là khuyến khích tính trung thành với tự nhiên, tính tinh xảo trọn vẹn (như trong tác phẩm của các họa sĩ thời kỳ tiền Raphaen) trong hội họa và thơ ca, phê bình.
(5): nhà điêu khắc Hy Lap thế kỷ IV trC.N., tác giả bức tượng Apolo mà bản sao hiện ở bảo tàng Louvre - Paris
(6): theo truyền thuyết Kinh thánh, Xamxơn người Nazarit có sức khỏe phi thường, là người anh hùng của dân tộc Ixraen, đã yêu Dêlila, kẻ bị người Philixtin, kẻ thù không đội trời chung của Ixraen, mua chuộc. Dêlila đã phát hiện sức mạnh của Xamxơn là ở mái tóc của anh ta, chưa được cắt từ hồi sinh ra. Sau khi ru cho Xamxơn ngủ trên đùi mình, Dêlila đã cho người cắt bảy món tóc của anh, làm anh mất sức mạnh và bị người Philixin bắt làm tù binh.
No comments:
Post a Comment