Sunday, April 22, 2007

Chàng Đỏ - Somerset Maugham (2)



- Qua những cái cầu như thế này khi chưa quen cũng tốn chút ít thần kinh đấy chứ.

Gã ngẩng lên nhìn và thấy một người đàn ông đang đứng trước mặt. Ắt hẳn ông ta từ cái nhà mà gã trông thấy đi ra.

- Tôi thấy ông ngập ngừng, - người đàn ông tiếp tục nói với nụ cười trên môi, - và tôi chỉ rình được thấy ông ngã.

- Có mà đến mục thất nhà ông, - viên thuyền trưởng nói, lúc này đã lấy được vẻ tự tin.

- Chính tôi trước kia cũng đã từng ngã. Tối nhớ là có một buổi tối đi săn về, tôi đã ngã, đánh rơi cả súng. Giờ thì tôi cho một cậu bé mang súng cho tôi.

Người đàn ông không còn trẻ nữa, có một bộ râu nhỏ giờ đã điểm bạc, và một khuôn mặt thuôn gầy. Ông ta mặc áo lót không tay và cái quần vải bông. Ông ta chẳng đi giày, tất gì cả. Ông ta nói tiếng Anh bằng một giọng hơi lơ lớ.

- Ông là Ninxơn? - Viên thuyền trưởng hỏi.

- Tôi đây.

- Tôi có nghe nói về ông. Tôi đoán là ông sống quanh quanh đâu đây.

Viên thuyền trưởng theo chủ nhân đi vào căn nhà một tầng và nặng nề ngồi xuống cái ghế mà người kia chỉ cho. Trong lúc Ninxơn đi ra ngoài kiếm rượu uytki, gã nhìn quanh gian nhà một lượt. Nó làm gã đầy sửng sốt. Chưa bao giờ gã thấy lắm sách đến vậy. Các giá đặt từ sàn lên đến trần ở cả bốn phía tường mà cái nào cũng chứa chật cả. Một cây đàn pianô lớn bày bừa các bản nhạc, và một cái bàn rộng trên đó sách vở tạp chí để bề bộn. Gian buồng làm gã thấy bối rối. Gã nhớ rằng Ninxơn là một tay kỳ quặc. Không ai biết về ông ta nhiều lắm, tuy ông ta đã ở đảo lâu, nhưng những ai biết ông ta đều đồng ý rằng ông ta kỳ quặc. Ông ta người Thuỵ Điển.

- Ông có một tủ sách to quá nhỉ, - gã nói, khi Ninxơn quay vào.

- Chúng cũng chẳng hại gì, - Ninxơn đáp với một nụ cười.

- Ông đã đọc tất cả số sách ấy rồi sao? - Viên thuyền trưởng hỏi.

- Cũng gần tất cả.

- Tôi cũng có đọc chút ít. Tôi vẫn đặt mua báo "Bưu điện tối thứ bảy".

Ninxơn rót cho khách một cốc rượu uytki khá mạnh và đưa cho gã một điếu xì-gà. Viên thuyền trưởng hởi dạ thông báo đôi điều tin tức:

- Tôi đến hôm qua, mà không tài nào tìm ra khe nước, nên phải bỏ neo phía ngoài. Tôi chưa chạy đường này bao giờm nhưng mấy cha bên tôi chở mấy thứ qua đây. Ông có biết Grây không?

- Vâng, anh ta có cái cửa hàng cách đây một đoạn đường.

- Phải, ở đấy có rất nhiều đồ hộp anh ta muốn được chở đến, với lại anh ta cần cả ít cùi dừa khô nữa. Họ cho là tôi cứ nên qua đây, nằm ườn ở Apia thì cũng thế. Tôi vẫn chạy đường Apia và Pago-Pago đấy chứ, nhưng vừa mới phát dịch đậu mùa ở đấy, nên chẳng có cóc khô gì để làm cả.

Gã uống một hớp rượu uytki và châm điếu xì gà. Gã vốn lầm kì, nhưng có cái gì đó trong con người Ninxơn khiến gã bị kích động làm gã cất tiếng. Người đàn ông Thuỵ Điển ngắm gã bằng cặp mắt to, đen, trong đó hơi thể hiện vẻ giễu cợt thích thú.

- Ông có cái chỗ xinh đáo để.

- Tôi cũng phải bỏ ra nhiều công sức đấy,

- Với chỗ cây này ông cũng khấm khá đấy nhỉ. Trông hay thật. Cùi dừa khô bây giờ đang được giá đấy. Tôi cũng đã có thời có ít đồn điền ở Upôlu (1), nhưng tôi đã phải bán đi rồi.

Gã nhìn quanh gian nhà một lần nữa, tất cả những quyển sách kia gợi cho gã một cảm giác khó hiểu và thù địch nào đó.

- Chắc ở đây ông thấy hơi buồn nhỉ? - Gã nói.

- Tôi đã quen rồi. Tôi ở đây đã hai mươi lăm năm.

Lúc này viên thuyền trưởng chẳng còn nghĩ ra chuyện gì để nói nữa, nên gã im lặng hút thuốc. Ninxơn hiển nhiên không tỏ ý muốn phá vỡ sự yên lặng. Ông nhìn khách bằng con mắt nghĩ ngợi. Gã có vóc người cao hơn sáu bộ, và rất mập. Mặt gã đỏ và đầy vết bẩn, với một mạng mao mạch màu tía trên má, những đường nét bị chìm vào trong sự phì nộn. Mắt gã vằn tia máu. Cổ bị vùi trong những ngấn mỡ. Nếu không có một món tóc quăn và sài, gần như màu trắng ở phía gáy, thì đầu gã hoàn toàn hói; và cái bề mặt trán thênh thang, bóng láng kia đáng lẽ phải tạo cái dáng uyên bác giả tao, thì nó lại tạo cho gã một vẻ đần độn đặc biệt. Gã mặc sơ mi xanh lơ bằng vải phlanen, phanh cổ và phơi bày bộ ngực béo phủ một mảng lông đo đỏ. Chiếc quần xanh rất cũ bằng vải xéc. Gã ngồi trên ghế trong một tư thế vụng về, nặng nề, cái bụnbg vĩ đại chìa ra phía trước và đôi bắp chân mập không bắt chéo. Mọi đặc tính đàn hồi đã thoát ra khỏi chân tay gã. Ninxơn trầm ngâm tự hỏi không hiểu thời trẻ gã thuộc loại người nào. Hình như không thể hình dung ra nổi cái tấm thân đồ sộ kia đã từng là một cậu bé chạy tung tăng. Viên thuyền trưởng đã uống hết cốc uytki và Ninxơn đẩy cái chai về phía gã.

- Xin mời ông.

Viên thuyền trưởng rướn người về phía trước và lấy tay tóm lấy chai rượu.

- Thế sao ông lại tới cái xứ này? - Gã hỏi.

- Ồ, tôi đến các đảo nơi đây là vì chuyện sức khoẻ. Phổi tôi hồi đó rất tồi, và người ta bảo tôi sẽ không sống nổi một năm nữa. Ông thấy đấy, người ta đã nhầm.

- Tôi muốn hỏi làm sao ông lại an cư ở chính nơi đây?

- Tôi là một người đa cảm.

- Chà!

Ninxơn biết viên thuyền trưởng chẳng hiểu gì điều ông nói, và ông nhìn gã với một ánh mỉa mai trong đôi mắt đen của ông. Có lẽ chính vì viên thuyền trưởng là một kẻ quá thô phàm và đầy độn nên ông thấy muốn hăng nói nữa.

- Ông phải lo giữ thăng bằng quá lúc qua cầu nên không nhận ra rằng chỗ này nói chung là khá đẹp đấy.

- Ông có căn nhà nho nhỏ đáng yêu thật.

- À, đây không phải nơi tôi đến ở lúc đầu. Nơi đây có một túp lều của thổ dân, mái tổ ong và kèo cột, núp bóng một cây to hoa đỏ, còn những bụi cây ba đậu, lá vàng, lá đỏ ánh lên làm thành một hàng rào xung quanh. Rồi chung quanh lại toàn những cây dừa, lạ lùng như đàn bà, và cũng kiêu kỳ như thế. Chúng đứng bên mép nước và cả ngày soi bóng mình xuống đó. Hồi ấy tôi còn thanh niên. Trời, cái thuở một phần tư thế kỷ về trước - tôi đã muốn hưởng trọn vẹn vẻ đáng yêu của thế gian trong khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại trước khi bước vào cõi hư vô. Tôi nghĩ đấy là chỗ đẹp nhất tôi từng gặp. Lúc đầu trông thấy, tôi đã sững sờ, e rằng mình sắp phát khóc lên. Bấy giờ chưa quá hăm lăm, và cho dù tôi đã lấy hết can đảm nhìn thẳng vào số mệnh, tôi vẫn không muốn chết. Thế rồi hình như chính cái vẻ đẹp nơi này đã làm tôi dễ dàng chấp nhận số mệnh của mình hơn. Tôi cảm thấy là khi tôi đến đây, tất cả quãng đời quá khứ đã rơi tuột đi mất. Xtốckhôm với Trường đại học tổng hợp của nó, rồi thì Bon; tất cả cứ như cuộc đời của một người nào khác, như thể lúc này rốt cuộc tôi đã đạt đến cái hiện thực mà các vị tiến sĩ triết học - tôi cũng là một tiến sĩ triết, - đã từng tranh cãi khá nhiều. "Một năm" - tôi thốt lên với chính mình, - "Ta có một năm. Ta sẽ dùng nó ở nơi đây và rồi ta sẽ bằng lòng nhắm mắt xuôi tay". Chúng ta đều ngốc nghếch, đa cảm và hay xúc động ở cái tuổi hăm lăm, nhưng giá chúng ta không như vậy thì có lẽ chúng ta sẽ kém sáng suốt hơn ở cái tuổi năm mươi. Nào uống đi, ông bạn. Đừng để những chuyện dấm dớ xen vào. Ông vẫy bàn tay về phía cái chai, và viên thuyền trưởng cạn nốt phần rượu trong cốc.

- Ông chẳng uống tí nào cả, - gã nói, tay với chai uytki.

- Tôi không nghiện, người đàn ông Thuỵ Điển mỉm cười - Tôi tự đầu độc mình bằng những cách tôi tưởng là còn tinh tế hơn. Nhưng có lẽ nó chỉ là chuyện huyễn hoặc. Dẫu sao, tác động kéo dài hơn và kết quả cũng độc hại hơn.

(1): Một trong chín hòn đảo ở Tây Xamoa, có trung tâm hành chính là Apia


To be continued

Chàng Đỏ - Somerset Maugham (1)

Viên thuyền trưởng thọc tay vào một bên túi quần với vẻ khó khăn, vì nó không nằm ở bên sườn mà lại ở đằng trước, đã thế gã lại to béo; gã rút ra chiếc đồng hồ to bằng bạc. Gã nhìn đồng hồ rồi lại nhìn lên mặt trời đang xé. Anh chàng người Kanaka ở mạn trái đưa mắt nhìn viên thuyền trưởng, nhưng không nói gì. Mắt viên thuyền trưởng dừng lại ở hòn đảo mà họ đang tiến lại gần. Một vệt bọt trắng ghi dấu đá ngầm. Đã biết rằng chỗ này có một khe nước đủ rộng cho con tàu đi qua, khi họ tới gần hơn, gã tính sẽ trông thấy. Họ còn có gần một tiếng nữa trước khi mặt trời lặn. Trong vịnh nước sâu, họ sẽ có thể thả neo thoải mái. Hương trưởng làng mà gã nhìn thấy giữa đám cây dừa kia là bạn của viên thuyền phó, lên bờ một đêm cũng dễ chịu. Viên thuyền phó tiến về phía trước và đúng lúc ấy viên thuyền trưởng quay về phía anh ta.

- Ta sẽ làm một chai rượu và rủ dăm cô gái lên nhảy, - gã nói.

- Tôi chẳng thấy khe nước đâu, - viên thuyền phó đáp.

Anh ta người Kanaka, đẹp trai, da ngăm đen, nom phần nào từa tựa như một Hoàng đế La Mã hậu sinh, đang đà chắc mập; nhưng khuôn mặt mịn màng và nhẵn nhụi.

- Tôi cầm chắc là nó ở ngay đây thôi, - viên thuyền trưởng vừa nói vừa nhìn qua cặp kính. - Tôi không hiểu tại sao ta lại không nom thấy. Thử cho một đứa trèo lên cột buồm ngó xem sao.


- Thuyền phó gọi một thủy thủ đế và ra lệnh. Viên thuyền trưởng dõi theo anh chàng thủy thủ người Kanaka leo lên và chờ anh ta báo. Nhưng anh ta nói vọng xuống là anh ta không trông thấy gì ngoài cái vệt bọt kia. Viên thuyền trưởng nói tiếng Xamoa như một thổ dân, gã chửi tục một các thoải mái.

- Cho nó ở trên ấy nữa hay không? - Viên thuyền phó hỏi.

- Ở trên ấy làm mẹ gì nữa? - Viên thuyền trưởng đáp. - Cái đồ ngốc nghếch chết tiệt ấy làm sao mà thấy được cái gì. Đánh cuộc với ông là thể nào tôi cũng tìm được cái khe nước nếu tôi lên trên ấy.

Gã tức giận nhìn cái cột buồm thanh mảnh. Thật rất hợp với một đứa thổ dân vốn vẫn quen trèo dừa suốt đời. Còn gã thì béo và nặng nề.

- Xuống đi, - gã kêu to. - Mày chẳng tích sự gì hơn đồ chó chết. Ta đành phải đi dọc dãy đá ngầm đến bao giờ tìm được khe nước mới thôi.

Đó là một chiếc tàu buồm bảy mươi tấn có động cơ chạy bằng paraphin. Khi không có gió ngược, nó chạy quãng bốn năm dặm một giờ. Chiếc tàu đã cũ được sơn trắng từ dạo lâu lắm rồi, nay nó vừa bẩn, vừa dơ, lốm đốm những vết. Nó sặc mùi paraphin và mùi dừa khô là thứ hàng chở thường xuyên. Họ chỉ còn cách dãy đá ngầm một trăm bộ và viên thuyền trưởng bảo người lái chạy men theo đá ngầm cho đến khi tới khe nước. Nhưn khi đã đi được một vài dặm, anh ta mới nhận ra là đã mất dấu. Anh ta trở buồm và từ từ cho lui lại. Bọt trắng của đá ngầm tiếp nối không hề đứt đoạn, và lúc này mặt trời đang lặn. Chửi cho sự ngu ngốc của kíp thủy thủ một câu, viên thuyền trường đành chịu đợi cho đến sáng hôm sau.

- Xoay buồm lại, - gã nói. - Làm sao bỏ neo ở đây được.

- Họ lại quay ra khơi chút ít, và giờ trời đã tối hẳn. Họ bỏ neo. Khi buồm đã cuộn, con tàu bắt đầu lắc lư mạnh. Ở Apia người ta nói rằng một ngày kia thể nào nó cũng lắc lư đến lật thì thôi; còn người chủ, một người Mỹ gốc Đức cai quản một trong những cửa hiệu lớn nhất thì bảo có các bao nhiêu tiền, anh ta cũng không chui vào cái tàu này. Anh bếp, người Trung Quốc mặc cái quần trắng, chạy ra nói là bữa ăn đã sẵn sàng; và khi viên thuyền trưởng bước vào ca bin, gã đã thấy người thợ máy ngồi ở bàn. Anh thợ máy người dài, gầy với cái ổ ngẳng. Anh ta mặc bộ quần áo làm việc màu xanh lơ và cái áo len cộc tay để lộ ra cái cẳng tay khẳng khiu xăm từ khuỷu đến cổ tay.

- Bố sư khỉ, phải ngủ đêm ngoài biển mất thôi, - viên thuyền trưởng nói.

Người thợ máy không trả lời, và họ ăn trong sự im lặng. Cabin được soi sáng bởi một ngọn đèn dầu tù mù. Khi họ ăn hết món mơ hộp cuối mỗi bữa ăn, thì anh bếp bưng một tách trà vào. Viên thuyền trưởng đốt điếu xì gà và bước lên boong trên. Hòn đảo bây giờ chỉ là một khối đen sẫm trong đêm. Những vì sao rất sáng. Âm thanh suy nhất là tiếng sóng cồn vỗ không dứt. Viên thuyền trưởng thả người xuống một chiếc ghế và uể oải hút thuốc. Rồi có ba bốn thủy thủ tiến đến và ngồi xuống. Một người có cây đàn băng-giô và một người khác có một chiếc côngxéctina (1) . Họ dạo nhạc, và một người cất tiếng hát. Bài hát thổ dân vang lên một cách lạ lùng trong âm hưởng của những nhạc cụ kia. Rồi một cặp bắt đầu nhảy theo tiếng hát. Một vũ điệu dã man, nguyên thuỷ, hoang sơ, dồn dập, với những động tác mau lẹ của tay chân và sự uốn éo của thên hình: một điệu nhảy nhục cảm, thậm chí còn xác thịt, xác thịt mà thiếu dục vọng. Nó rất thú vật, rạch ròi, kỳ quặc mà không thần bí, tóm lại là tự nhiên gần như có thể gọi là trẻ con. Cuối cùng họ thấm mệt. Họ nằm ngả trên boong và ngủ, mọi vật đều yên lặng. Viên thuyền trưởng nặng nề nhấc thân mình khỏi ghế ngồi và lồm cồm bò qua một bạn đồng hành. Gã đi vào cabin và cởi quần áo ra, lên giường nằm. Gã thở hổn hểnh trong cái nóng của đêm.

Sáng hôm sau, khi hừng đông bò lên trên mặt biển êm lặng, khe nước giữa đá ngầm lẩn khỏi mắt họ đêm trước giờ đã hiện ra chênh chếch một chút về phía đông của nơi họ đậu. Chiếc tàu buồm tiến vào vịnh. Không có lấy một gợn sóng trên mặt nước. Sâu dưới những tảng đá san hô người ta thấy cá con đủ các màu bơi lượn. Khi đã thả neo đâu vào đấy, viên thuyền trưởng ăn bữa sáng và đi lên boong. Mặt trời toả chiếu trên bầu trời không mây, nhưng vào buổi sáng sớm thế này, không khí mát mẻ và dễ chịu. Hôm đó là ngày chủ nhật nên có một cảm giác tĩnh tại, yên ắng, như thể thiên nhiên đã đi nghỉ, điều ấy tạo cho gã một vẻ khoan khoái đặc biệt. Gã ngồi nhìn bờ cây um tùm, cảm thấy biếng nhác và thư thái trong lòng. Ngay sau đó có một nụ cười chậm rãi làm động đôi môi gã, gã ném mẩu xì gà xuống nước.

- Ta phải lên bờ mới được, - gã lên tiếng. - Cho thuyền ra nào!

Gã vụng về trèo xuống thang và chiếc thuyền chèo vào ngách vịnh con con. Những cây dừa tiến sát xuống tận mép nước, không thành hàng, mà dàn ra với một nghi thức định sẵn. Nom chúng giống vũ điệu ba-lê của các bà cô không chồng, tuổi đã lớn nhưng vẫn lả lơi, làm điệu làm bộ với vẻ duyên dáng màu mè của một thời đã trôi qua. Gã khệnh khạng đi qua đám dừa, dọc theo con đường trông rõ nét uốn lượn quanh co, chẳng mấy chốc nó dẫn gã tới một con lạch rộng. Một cái cầu bắc qua, làm bằng những thân cây dừa có khoảng một tá thân cây thành hàng một, đặt nối đầu với nhau và ở giữa chỗ nối được đỡ bằng một cây chạc cắm xuống lòng lạch. Bạn phải bước trên một bề mặt tròn, nhẵn, lại hẹp và trơn, mà không có tay vịnh. Để qua cái cầu như thế đòi hỏi phải có một đôi chân chắc chắn và một con tim vững vàng. Viên thuyền trưởng ngập ngừng. Nhưng gã trông thấy bờ bên kia, nép dưới bóng cây là một ngôi nhà của người da trắng; gã quả quyết, và khá là rón rén, gã bắt đầu bước đi. Gã quan sát đôi chân cẩn thận, và mỗi khi gặp một chỗ nối thân cây mấp mô, gã hơi loạng choạng. Với tiếng thở phào nhẹ nhõm, gã đã đi tới cái cây cuối cùng và sau rốt đặt được chân lên nền đất cứng của bờ bên kia. Gã để tâm chăm chú vào việc qua cầu khó khăn này, nên không nhận thấy có người quan sát gã, và thật là ngạc nhiên khi gã nghe tiếng người nói với mình.

(1): một loại nhạc cụ nhỏ kiểu acocđêông, có nút ấn và dải xếp nếp

To be continued...

Thursday, April 19, 2007

Đảo tường vy - An Ni Bảo Bối


Phần 1 - Cứ đi, cứ đi
13. Nhớ lại tình yêu (p.111-112)


Trên đường đi chợt nhớ lại các cuộc tình. Cảm thấy tình yêu đẹp nhất là hai người bầu bạn với nhau.

Không cần ràng buộc, không cần vòng vo, không cần sở hữu, không cần khát vọng khai thác được ý nghĩa gì từ bạn tình. Đó là thứ đã xác định phải hụt hẫng. Nhưng phải là hai chúng ta được xếp cạnh nhau, đứng ngắm cái nhân gian vắng vẻ này.

Có hai căn phòng độc lập, mỗi người đều làm việc trong phòng riêng.

Cùng đi ăn tối ngoài tiệm.

Lúc đi dạo có rất nhiều chuyện để nói.

Lúc ôm nhau, thấy được an toàn.

Không xâm phạm tự do của nhau. Không sợ anh vẫn liên lạc với bạn gái cũ.

Không bày tỏ tình cảm gì cho nhau. Bày tỏ là tìm lấy sự thay đổi.

Rất bình dị. Rất quen thuộc. Dường như mùi của anh chính là mùi trên cơ thể bạn.

Bất luận ở đâu và khi nào đều cần phải giữ cho nhau một khoảng cách.

Có thể bỏ đi bất cứ lúc nào.

Khi muốn yên tĩnh, dù anh ở bên cạnh cũng giống như đang ở một mình.

Có một phong cách sống riêng, bao gồm cả quần áo, đĩa nhạc, nước hoa, thức ăn...

Không quá nhớ nhung nhau, nhưng khi mệt mỏi vẫn biết anh là nhà.

Chúng ta rất dễ đụng nhau, bởi đều là những người ích kỷ hoặc ngu ngốc. Bọn họ yêu những người khác chỉ để chứng minh người khác cũng yêu họ. Hoặc đã tóm được trong tay, tiếc không nỡ buông, mãi cho đến khi vật nắm trong tay đã chết đi.

Tình cảm chín muồi cần mất thời gian chờ kết trái. Nhưng chúng ta đều mất kiên nhẫn. Ai có thể mất mười năm chờ đợi một người bỏ đi phương xa? Ai có thể sau mười năm tha phương vẫn quay về tìm lại người xưa cũ. Có những tình yêu do quá sốt sắng muốn đạt được danh lợi, không có cách được chứng minh, thế nên cũng không thành.




Cứ đọc An Ni Bảo Bối là lại tưởng đọc nhầm nhật ký của chính mình. Cái cảm giác đọc nhật ký của mình nhưng không phải do mình viết ra từ Hoa bên bờ đã là một trải nghiệm lạ. Vốn dĩ Hoa bên bờ được đặt trong bối cảnh Thượng Hải nên có đoạn rất sáng rõ nhưng cũng có những đoạn thật lu mờ. Trải nghiệm với Đảo tường vy thì hoàn toàn rất rõ ràng vì bối cảnh chính của nó là Việt Nam, với đầy đủ Sài Gòn, Hà Nội, Đà Lạt, Huế, Hội An... Từng ánh mắt của những con người nơi góc phố, từng quán ăn chen đầy những anh Tây ba lô hay những cô du khách Nhật đều là những gì đã từng trải nghiệm thật sự...


Ghi chú: Trong phần đầu của Đảo tường vy, An Ni Bảo Bối có viết về vùng đất tên Đại Lải với những ngôi biệt thự kiểu Pháp, núi, đồi và một rạp phim duy nhất "có một cái tên rất xa vời, được gọi là Một phần ba lại bốn. Hoặc là Một phần bốn lại ba." (p.24) Rồi cũng kịp nhận diện 2 cái tên này. Đại Lải tức là Đà Lạt (chứ không phải Đại Lãnh như trong đầu mình cứ lặp đi lặp lại vì sự thật là đang rất muốn được đi Đại Lãnh) và cái rạp phim đó là rạp 3-4. Có điều không hiểu là vì sao người biên tập sách không bị chú thêm sau khi đã chuyển ngữ nhỉ?!

Ảnh: Rạp 3-4 @ Đà Lạt - from Alamy




Sunday, April 15, 2007

Làm nhà văn không dễ tí nào


Diễn đạt cảm xúc của mình thành lời văn thì ra khó đến như vậy. Cô không biết những nhà văn khác gặp loại khó khăn nào trong quá trình sáng tác, nhưng chắc hẳn nếu sau này có ai đó hỏi, cô sẽ bảo với họ rằng đó chính là trở ngại lớn nhất của cô.

Khi bạn kiếm sống bằng việc mỗi ngày ngồi tám giờ trước máy vi tính chỉ để viết thì bạn hoàn toàn không nghĩ rằng viết lách lại cực nhọc như vậy. Nhưng việc kiếm sống đó, cái công việc mà cô thường gọi bằng cái tên “thợ viết” lại hoàn toàn khác hẳn “công việc viết văn” này. Mỗi ngày cô sẽ nhận được yêu cầu từ sếp, rằng hôm nay chúng ta cần n bài với n là một con số bất kỳ, thường thì cũng không nhiều hơn 10 cho x tờ báo mà đôi khi x lớn gấp đôi n (cũng có nghĩa là người ta có thể thấy cùng một nội dung đó, với chính xác từng con chữ trên nhiều tờ báo khác nhau). Rằng em hãy viết như thế này, như thế này, cho phù hợp với nhu cầu như thế kia của khách hàng. Và công việc thợ viết chỉ đơn thuần là chắp ghép tất cả những thông tin khách hàng cung cấp và tìm được đâu đó mà thường là trên cái kho internet khổng lồ, thêm chút gia vị là những lời văn bay bướm (nếu đó là bài cần đăng trên một tạp chí dành cho những cô nàng nhân viên văn phòng vẫn còn mơ đến chuyện nàng Lọ Lem thời hiện đại) hoặc những con số chính xác đến hàng đơn vị (nếu đó là bài muốn được đăng trên mục… tự giới thiệu của một tờ báo có tính khoa học hơn). Thợ viết trong định nghĩa của cô đơn thuần là công việc nhàm chán như thế và chả ai đòi hỏi cô phải gia giảm thêm những cảm xúc của mình vào. Thậm chí, cảm xúc thật của thợ viết – là cô – nếu lỡ bộc lộ trong bài viết còn có thể trở thành nốt nhạc nằm sai vị trí làm hỏng cả bảng hoà tấu mà sếp cô đã dày công tạo tác nên. Thứ cảm xúc duy nhất cô tìm được cho mình từ những bài viết của chính cô thường rất kỳ cục – cách cô vẫn thường gọi nó. Ví dụ như sau khi đọc tất cả thông tin khách hàng gửi đến và tìm được trên mạng về sản phẩm thuốc bổ sung sắt cho phụ nữ, cô sẽ có cảm giác mình đang thiếu sắt trầm trọng. Nếu bài viết của cô không làm cô thoát khỏi cảm giác đó thì theo cô đó là một bài viết thành công. Hoặc như hôm cô viết về loại thuốc bổ cho phụ nữ đang mang thai, cô đã tin rằng nếu một khi cô có thai, đứa con của cô có thể thiếu loại vi chất đó lắm mà nếu như vậy thì biết đâu nó sẽ tàn phế thật, như bài viết của cô đã nói.

Nhưng đó hoàn toàn là công việc của thợ viết. Còn bây giờ cô đang muốn thử làm một nhà văn. Bạn bè cô bảo cô viết rất chỉnh chu. Sếp cô nói những dòng chữ em viết ra anh không bao giờ có thể cắt gọt hay chỉnh sửa gì cả vì nó là một tổng thể như-nó-phải-thế. Và mọi người bảo cô nên thử viết một truyện ngắn hay một cái gì đó hay hay khác. Mọi người nói với cô nhiều đến độ cô tin rằng mình có thể làm được điều đó. Và cô đang thử.

Hai nhân vật của cô gặp nhau ở lưng chừng trời. Đó là một nơi rất đẹp, phía xa có núi, dưới chân có mây, hoa nở dọc những con đường mòn và trong không gian đầy ắp thanh âm của thiên nhiên. Cô gái đang đi bỗng vấp phải phiến đá to vì mải mê canh chỉnh một bức ảnh. Chiếc máy ảnh không sao nhưng để cứu nó cô gái đã vấp vào đâu đó và chân bị trật khớp. Thôi thì coi như có thêm thời gian ngồi nghỉ ngơi giữa nơi xinh đẹp này, cô gái đã tự nhủ với mình. Vài khách du lịch da trắng mắt xanh đi ngang, hỏi han cô dăm ba câu, cô bảo không sao cả, chỉ muốn ngồi lại ngắm cảnh, nghỉ ngơi và chúc họ một chuyến du lịch vui vẻ. Không biết cô nói dối giỏi hay bọn họ không để ý trong khi trò chuyện một tay cô vẫn xoa xoa chỗ chân đau mà lần lượt từng người đều cảm ơn và chúc cô ngắm cảnh vui vẻ rồi lại tiếp tục lên đường. Rồi chàng trai xuất hiện, nhận ra mắt cá chân trái của cô đang sưng lên ngay khi ngồi xuống định trò chuyện dăm câu cùng cô như những người khác. Cô vẫn giữ cái suy nghĩ rằng ở đất nước Á Đông này chỉ có những người phụ nữ thích sự độc lập, có khả năng độc lập, không còn quá trẻ nhưng chưa kịp già, có một sức quyến rũ nhất định với những người đàn ông quanh mình nhưng không có bạn trai mới thích đi du lịch một mình. Còn những người đàn ông ở độ tuổi của cô trở lên dường như chỉ quen với cách sống bầy đàn, không chịu được sự cô độc và những anh chàng đi du lịch một mình thường là loại đang gặp rắc rối với cuộc sống hoặc chỉ là những anh nghệ sĩ nửa mùa. Nhưng chàng trai ngồi cạnh cô không phải một trong hai loại đàn ông đó, và anh ta đang đi một mình. Và rồi…

Và rồi sao nữa? Cô cũng không biết. Cái gì đang chờ đón câu chuyện tình yêu của hai nhân vật ấy? Cô không biết phải viết thế nào về khoảnh khắc đầu tiên ấy trong trái tim hai nhân vật của mình. Hồi hộp? Vui vẻ? Không, nó hẳn phải là cái gì đó khác. Ngôn từ của một cô thợ viết bỗng dưng tắc tị.

Mà cái nghề thợ viết đến với cô thật tình cờ, có lẽ điểm giống nhau nhất của nó với việc trở thành một nhà văn là nghề chọn người chứ không phải do người chọn nghề. Cô đã quyết định chọn nghề báo với hy vọng sẽ được gặp thật nhiều những con người thú vị, được đi thật nhiều những nơi mới lạ. Vậy mà ra trường chưa đầy một năm cô lại quyết định cuộc đời mình sẽ đóng đinh bên chiếc máy vi tính mỗi ngày tám tiếng (hoặc hơn), trong một văn phòng ở cái nơi không thấp cũng không cao của cái cao ốc ngay trung tâm thành phố này. Đó là ngày sếp gặp cô và bảo, anh đã đọc qua những bài viết của em, em không nên quăng mình ra ngoài những cực khổ kia, máy vi tính hiện đại, trong một căn phòng máy lạnh mát rượi và một mức lương cao sẽ hợp với em hơn. Nói cho cùng thì nghề thợ viết giúp cô sống khoẻ, chả bao giờ phải lo lắng nếu ngày mai hết tiền thì mình sẽ thế nào như những ngày còn rong ruổi ngoài phố với mơ ước trở thành một nhà báo “vĩ đại”. Đồng lương trong ngành quảng cáo tiếp thị luôn là niềm mơ ước của nhiều người. Nhưng bù lại, cô phải dán mắt vào màn hình ngày qua ngày, phải quên mất mình ghét cái thuốc chống ghẻ đó vô cùng khi phải viết những dòng ca ngợi công dụng của nó, và đôi khi quên rằng mình còn rất nhiều sở thích hay ho mà lâu rồi không biết làm sao nhìn ngó lại.

Cô lấy chiếc điện thoại khỏi túi xách. Em muốn gặp anh, 7 giờ em đợi anh ở chỗ cũ. Đã lâu lắm rồi cô không nhắn tin cho anh vào những ngày cuối tuần, cũng lâu lắm rồi cô và anh không đến quán café vào chiều cuối tuần. Nhưng hôm nay cô muốn gặp anh.

Từ ngày anh đám cưới, cô hạn chế gửi tin nhắn cho anh, những tin nhắn vu vơ của đứa em gái không có bạn trai. Cô biết khi nhận được những tin nhắn của mình anh sẽ trả lời, theo một cách nào đó mà chắc chắn cô sẽ phì cười dù rằng hiểu rõ anh đang chọc ghẹo cô. Ở công ty, cô có vài đứa lính nhỏ - như cô vẫn thường khoe với anh – đi theo học việc. Đó là những cô cậu bé mới ra trường, hình ảnh của chính cô vài năm trước, được sếp tin cẩn quăng vào tay cô huấn luyện. Dạy bảo đám lính nhỏ ấy thật không khó lắm. Sếp có khả năng tìm ra người có tài giữa mớ hỗn độn những tấm đơn xin việc. Chúng rất nghe lời cô, một hai cũng dạ thưa chị. Với khách hàng, cô cũng là một tay viết có nghề, đáng được tôn trọng. Nhưng với anh, cô luôn là một cô bé con. Cô vẫn thắc mắc không biết đến năm mình đã là bà già năm mươi tuổi nhăn nheo, anh có còn coi mình là cô bé con nữa không. Cô muốn hỏi anh, nhưng cô biết nếu hỏi anh điều đó thì không khác gì tạo thêm cơ hội để anh nhạo cô vài câu gì đó rồi lại phá lên cười, rõ ràng em vẫn chỉ là một cô bé con.

Lẽ ra cô phải nhắn rằng em có một buổi tối rảnh rang, nếu anh không bận việc gì thì hãy đến gặp em ở chỗ cũ lúc 7 giờ, nếu không thì hẹn anh lúc khác. Cô đang ngồi ở chỗ cũ, một quán café yên tĩnh với tiếng nhạc vừa phải, quán tối, chủ yếu được rọi bằng ánh nến ở mỗi bàn và nghĩ vu vơ. Biết đâu anh đang bận việc gì đó, biết đâu anh đang chở vợ về thăm nhà. Lẽ ra mình không nên làm phiền anh nếu anh đang bận. Cô không thích làm phiền người khác. Cô đã quen với nếp giáo dục của gia đình, nếu việc gì có thể tự giải quyết thì đừng bao giờ làm phiền người khác. Bạn bè bảo chính điều đó làm người khác ngại khi ở gần cô. Họ có cảm giác bên cô mình là người thừa. Có lẽ vì thế mà những chàng trai không ở bên cô lâu, họ chẳng biết phải che chở cho cô gái này như thế nào khi cô ta đã có đủ khả năng tự vệ cho mình.

Cửa quán xịch mở. Trong bóng tối mờ mờ cô vẫn nhận ra nụ cười của anh. Có lần cô bảo anh không phải người xấu, nhưng nếu chưa từng biết anh mà lại bắt gặp nụ cười ấy thì người ta không thể nghĩ tốt về anh được. Không có gì thay đổi, anh ngồi vào chiếc ghế đối diện cô. Anh và cô luôn ở tư thế đó trong những cuộc trò chuyện. Không bao giờ cùng một chiến tuyến.

Không phiền anh đang làm nhiệm vụ người chồng tốt chứ? Anh có bao giờ bảo rằng anh là ông chồng tốt đâu nhỉ! Nhóc, đùa thôi, bà xã anh về bên nhà ông bà già rồi, tối mới về. Anh đang định họp hội đồng hành với các chiến hữu. Dù sao thì café cũng tốt hơn bia rượu nhỉ!

Em đã bắt đầu viết, truyện ngắn, về tình yêu. Anh suýt phì cười khi nghe cô nói, ly café trong tay đảo mạnh. Và em đang tắc tị phải không bé con? Cô luôn bất ngờ khi anh nói chính xác những điều trong đầu mình. Mọi người đều khuyên em nên viết, nên thử tập làm nhà văn mà. Anh đâu có khuyên em điều đó bao giờ. Nhưng ngoài anh ra ai cũng khuyên em như vậy cả. Tại sao lại viết về tình yêu? Vì đó là điều mọi người đều viết. Không biết bao giờ cô bé của tôi mới chịu lớn lên nhỉ! Em đã viết đến đoạn nào rồi? Em không biết nên khởi đầu tình yêu đó thế nào. Và em cũng không biết nó sẽ có hình thù gì và rồi sẽ đi đến đâu phải không? Cô lại tròn mắt nhìn anh. Đừng có nhìn anh như thế chứ! Chuyện này lẽ ra em phải tự lường trước cho mình mà. Em đang viết về điều em chưa bao giờ biết. Em định tự mình vẽ ra nó, như nàng Lọ Lem sẽ gặp Bạch mã Hoàng tử trong truyện cổ tích à? Em không biết, em cứ nghĩ tình yêu sẽ tự đến khi những câu chữ của em đưa hai nhân vật đến với nhau. Nhưng ngay ở đó em lại đột nhiên nhận ra mình không biết nên thể hiện nó thế nào. Vì em không biết nó như thế nào, nhóc ạ! Nghề thợ viết của em chỉ cần những con chữ xếp hàng ngay ngắn, nhưng để làm một nhà văn em cần cảm xúc thật, hiểu chưa nhóc?

Ừ, em hiểu rồi. Cô nhăn nhăn cười. Những sở thích hay ho từ lâu cũng đã bị cô gác sang một bên để lo cho những trang viết không cảm xúc. Đã quá lâu từ lần cuối cùng những làn mây vây quanh bước chân cô. Ừ, em thông rồi. Cám ơn anh! Về thôi anh, muộn rồi! Này, em sẽ vẫn viết cho hết câu chuyện đó phải không nhóc? Anh nói khi lên xe chuẩn bị chạy đi. Cô mỉm cười vẫy vẫy tạm biệt. Dĩ nhiên rồi, nhưng mai em sẽ xin nghỉ phép dài hạn trước đã. Cái nơi ở lưng chừng trời giờ không biết thế nào rồi, có lẽ Hoàng vẫn đợi cô. Khi nào trở về em sẽ có quà cho anh.

CZC



Saturday, April 07, 2007

Kiếp sau - Marc Levy

Nếu thật sự có một kiếp sau nào đấy, thì kiếp trước, và trước, và trước... nữa là nơi nào? Anh ở đâu và em ở đâu?... - 2/2007, T.C



Trước tiên phải khen các nhà xuất bản và giới phát hành sách. Ngày nay các anh chị không thụ động ngồi chờ người đọc tìm đến với mình mà rất chủ động đưa sách đến với độc giả bằng nhiều chiêu thức, từ mục giới thiệu sách trên báo đến tạo scandal để làm PR... Tôi tin rằng những bài giới thiệu sách trên các báo thật sự phát huy tác dụng khá mạnh. Ít nhất thì cũng 1 người vì những lời giới thiệu này mà đã tìm đọc dăm ba quyển sách. Kiếp sau (của Marc Levy) là một trong số đó.

Thật ra thì Marc Levy không phải là một tác giả lạ lẫm với giới trẻ mặc dù ông là một nhà văn chưa già. Khá nhiều khán giả Việt Nam đã từng được tiếp cận với ông một cách gián tiếp qua bộ phim tình cảm lãng mạn Just like Heaven - chuyển thể từ tác phẩm If only it was true (tức Và nếu điều này là có thật). Tuy nhiên, sự thật là tôi chưa xem bộ phim này cho đến trước khi đọc Kiếp sau và sau đó thì đã có xem qua nhưng cũng chưa trọn vẹn.

Theo những lời bạt được viết trên bìa sách, Kiếp sau là quyển tiểu thuyết tình cảm được cả người đọc ưa thích lẫn giới phê bình đánh giá cao trong dòng chảy khá hối hả của văn chương đương đại. Rằng cũng theo những lời phê bình này, Kiếp sau thực sự đã mô tả được một tình yêu sâu sắc, thứ tình yêu mà cái chết không thể chia lìa và cho dù phải qua bao nhiêu kiếp người ta vẫn không thể quên được nó, vẫn phải đi tìm nhau. Bên cạnh đó, Kiếp sau cũng được đánh giá cao bởi sự kết hợp hài hoà cả những yếu tố tâm linh và trinh thám.

Sự thật về quyển sách này?

Thực tế là khi đã mở quyển tiểu thuyết này ra và bắt đầu lật những trang đầu tiên tức là bạn đã quyết định gắn kết với nó đến trang cuối cùng. Marc Levy thật sự thành công trong việc buộc độc giả khi đã cầm quyển sách lên thì không thể bỏ nó xuống nếu chưa hoàn tất trang cuối. Ông đã thành công khi xếp chồng các chi tiết lên nhau liên tiếp, buộc người đọc phải tìm cách tháo ra từng lớp, từng lớp một và vì thế bạn sẽ giống như rơi vào cơn nghiện khi chơi trò Bejeweled hay Xếp gạch trên máy tính. Bạn sẽ phải hối hả bước theo từng bước chân của các nhân vật, sẽ chạy theo họ từ thành phố này sang thành phố khác để tìm cho ra đáp án.

Tương tự như các nhà văn đương đại khác của thế giới, Marc Levy vận dụng khá nhiều những kiến thức về các lĩnh vực khoa học và nghệ thuật vào tác phẩm của mình. Tuy nhiên, không như Dan Brown và Janusz Leon Wisniewski, vốn tri thức của Marc Levy được áp dụng trong tác phẩm mềm mại hơn. Sự mềm mại và uyển chuyển này giúp tác phẩm của ông mang tính đại chúng hơn, dễ tiếp cận hơn với phần đông độc giả so với tác phẩm của 2 nhà văn kể trên.

Tuy nhiên, với tôi, nếu quyển sách này được xếp vào loại tình cảm thì nó hoàn toàn là 1 tác phẩm thất bại. Marc Levy mô tả rất chi tiết về tình yêu ấy, rằng họ phải chạy đua từ kiếp này sang kiếp khác để tìm lại nhau sau khi đã thất lạc bởi cái chết. Ông cũng đã viết về tình yêu ấy như là nguồn sống duy nhất của linh hồn mà nếu đánh mất nó thì linh hồn cũng không còn có thể tồn tại. Nhưng... đó chỉ đơn thuần là lời văn của tác giả và tôi hoàn toàn không cảm nhận được tình yêu đó giữa 2 tâm hồn ấy. Tôi chỉ thấy họ hối hả vì sợ không tìm ra được sự thật, hối hả vì sợ lạc nhau thêm 1 lần nữa. Tôi thấy tất cả, thấy cả cái chết một lần nữa đến với họ. Tôi chỉ không thấy cái duy nhất mà lẽ ra tôi cần phải thấy sau tất cả những cố gắng của tác giả: tình yêu. Tôi không thấy được sự rung động của mình ở tư cách một độc giả với mối tình lẽ ra phải đầy bi ai và mãnh liệt ấy.

Tôi nghĩ khi chấp bút Marc Levy đã muốn tạo ra một chuyện tình cảm động, một mối tình Romeo - Juliet của thế kỷ 21 như những nhà phê bình khác nhận xét, trên cái nền của cuộc điều tra hối hả. Nhưng... nếu được đứng ở vị trí một người phân loại sách, thật lòng tôi sẽ đặt Kiếp sau vào một thể loại khác, với tôi nó nên là tiểu thuyết điều tra trinh thám pha lẫn yếu tố tâm linh trên nền của câu chuyện tình giữa Jonathan và Clara thì hợp hơn.

Dù sao đi nữa, thật sự tôi không phủ nhận 2 điều thu hút tôi trong quyển tiểu thuyết này. Đầu tiên là thuyết về linh hồn đi tìm nhau và không gian đang du hành trong chiều của thời gian. Tôi không biết thuyết này do Marc Levy đã lấy từ những nhà nghiên cứu khác hay tự bản thân ông chiêm nghiệm ra và sáng tạo thêm cho tác phẩm của mình nhưng tôi thật sự cảm thấy rất thích thú với nó. Có lẽ sau câu chuyện thần thoại của Ấn Độ về 2 nửa bị cắt đôi của cái hình hài ban đầu mãi đi tìm nhau để ráp lại thành một hình hài trọn vẹn thì thuyết 2 linh hồn tìm về nhau này thật sự rất đáng chú ý. Thứ hai, tuy ông không thành công trong việc bộc lộ tình yêu giữa Jonathan và Clara, tôi lại nhận chân ra một tình yêu khác. Tôi bị cuốn hút hoàn toàn vào sự gần như "thần tượng hoá" của Peter dành cho Jonathan. Peter tự nguyện bị Jonathan kéo chìm vào cái thế giới hội hoạ thế kỷ 19. Peter tự nguyện bỏ tất cả những gì mình đang cố gắng níu kéo cho sự nghiệp vì tình yêu của Jonathan. Peter yêu tất cả những gì Jonathan yêu, từ con phố gần cảng, từ cái chợ trời cho đến bức tranh không biết có tồn tại hay không. Tôi tự hỏi khi tình yêu của một người đàn ông này trở thành tình yêu của một người đàn ông khác, đó là thứ tình cảm gì? Thứ cảm xúc trong tình yêu như của Jonathan và Clara bạn có thể tìm thấy nhan nhản trong những quyển tiểu thuyết diễm tình ngoài kia, nhưng thứ tình cảm giữa Peter và Jonathan mới là điều khác lạ thật sự.

Sau khi đọc xong Kiếp trước, tôi đã đọc qua một vài chương của Và nếu điều này là có thật (tôi mạn phép viết lại tên tác phẩm hơi khác so với nguyên văn trong bản dịch của vnthuquan) và đã rút được một vài motif trong bút pháp của Marc Levy.

Văn phong của ông thật sự hối hả, chính nhịp điệu này đã cuốn độc giả vào một cuộc đua, cuộc đua với thời gian của nhân vật. Đây có thể xem như một thành công trong bút pháp điển hình của ông. Người đọc chính vì yếu tố này trong bút pháp của ông mà cùng bị kéo vào với cuộc đua của nhân vật.

Hãy đừng quên xuất thân của Marc Levy, ông là một kiến trúc sư và ông chia sẻ cuộc đời mình một nửa ở New York, nửa kia ở Paris. Theo tôi, cách ông mô tả vẻ đẹp của thành phố lúc giao thoa của ngày và đêm (cả hoàng hôn lẫn bình minh) từ những ô cửa kính rộng của những toà nhà cao tầng chính là ánh xạ của chính ông vào nhân vật của mình. Nói một cách khác, cái nhìn của từng nhân vật từ cao độ ấy, từ tầm mắt ấy cũng chính là cái nhìn của chính ông.

Tôi không hiểu cuộc sống của con người Mỹ quốc hối hả đến mức nào và họ xa cách nhau đến mức nào. Tôi chỉ biết rằng Crash đã đoạt Oscar của người Mỹ và trong những tác phẩm của Marc Levy sự va chạm tạo nên phép màu. Họ chạm vào nhau và họ nhận ra nhau. Nếu không chạm vào nhau thì sao? Họ sẽ mất nhau chứ? Không ai biết điều đó cả và tôi tin rằng chính Marc cũng không biết. Ông chỉ biết rằng phải chạm vào nhau thì điều đó mới đến, những linh hồn bằng một cách nào đó qua thân xác nhận ra nhau...

Bạn sẽ đọc chứ? Cả Kiếp trước và những tác phẩm khác nữa của Marc Levy?

Chú thích:
- Bìa bản tiếng Pháp.
- Kiếp sau = La prochaine fois - 2004
- Và nếu điều này là có thật = Et si c'était vrai - 1998