Sunday, November 04, 2007

Mặt trời nhà Scorta - Laurent Gaudé

Cảm thấy có lỗi với cái blog này vì để nó đóng bụi lâu quá mặc dù vẫn đọc sách đều đặn. Publish 1 bài review đã viết từ hơn 2 tháng trước để phủi bớt bụi. Cái review này chưa hoàn chỉnh hoặc gần như không thể hoàn chỉnh nổi so với những gì mà quyển sách có thể đem đến cho người đọc. Thay vì lạc lối trong những con đường mịt mờ của những quyển tiểu thuyết diễm tình bi lệ hay những vùng vẫy không lối thoát của câu hỏi về thân phận con người, có lẽ "Mặt trời nhà Scorta" (Le soleil des Scorta) thật sự là thứ có thể mang lại ánh sáng như mặt trời cho người đọc. Những quyển sách tốt thế này sao lại ít người biết và yêu thích nhỉ?




Lâu quá chẳng review sách rồi mặc dù 3 tháng nay đọc được kha khá sách hay. Có lẽ vì nó hay quá nên chỉ thích giữ lấy cho mình mà chả thèm giới thiệu với ai (hơhơ đúng bản chất ích kỷ của mình). Đùa thôi, thật ra có thể vì bản thân mỗi quyển sách đã là một tổng thể quá hoàn hảo để có thể nhận thêm bất cứ lời giới thiệu và khen ngợi nào. Tuy nhiên, quyển "Mặt trời nhà Scorta" này làm cho mình có cái cảm giác nếu không giới thiệu với người khác chính là bản thân đã có tội với quyển sách và tác giả của nó.

Thật ra "Mặt trời nhà Scorta" đã có mặt ngoài nhà sách hơn một năm rồi và mình cũng đã thấy nó khá nhiều lần trong những kỳ hội sách hay mấy lần lang thang ngoài nhà sách rồi. Vấn đề là nó có một cái bìa sách làm mình "không chịu nổi" (theo nghĩa làm mình liên tưởng đến một quyển sách có nội dung rẻ tiền) mặc dù tông màu của bìa sách khá tốt và có mấy chữ "Prix Goncourt 2004". Tuy nhên, có lẽ quyển sách này thật sự có duyên nợ với mình nên vào một ngày không ngó qua cái bìa mà mở thử vào trong đọc vài dòng thì lại chọn mua. Cô bé bán sách sau khi giới thiệu cho mình một số cuốn mà "em thấy người ta hỏi mua nhiều", trong đó có mấy quyển của Đới Tư Kiệt (eo ôi, em chưa dở hơi đến nỗi đâm đầu đọc sách của bác này!), thì hỏi lại mình "Ủa chị, quyển này hay không, viết về cái gì vậy? Sao em thấy cái bìa..." Ờ, lúc đó mới nhìn lại và tự nhủ "Ủa, nó là cái quyển..."

Thêm một lần nữa mấy dòng "giới thiệu sách" được in đầy mặt trước mặt sau của một quyển sách lại làm mình thấy khó chịu. Có những thứ mộc mạc và bình dị đến nỗi tất cả những câu chữ hoa mỹ nhất mà người ta dùng để nói về nó lại trở thành thứ trò hề kệch cỡm, hệt như một nàng thôn nữ mang vẻ đẹp trong sáng ngây thơ lại bị khoác lên người những thứ đồ mỹ kim óng ánh nhưng sẻ tiền. Có lẽ một ai đó nên góp ý với Nhã Nam về chuyện này nhỉ?!

Những lý do để "Mặt trời nhà Scorta" trở thành quyển sách đáng, rất đáng xem:

- Xem để biết rằng "Mùa lạc" của Nguyễn Khải chỉ là thứ "quái thai của chế độ nhưng được khoác lên mình thân phận đẹp đẽ - văn chương"

"Mặt trời nhà Scorta" viết về một dòng họ được hình thành từ "một hành vi tội lỗi" và vì thế nó đã từ đầu mang thân phận "dòng họ bị nguyền rủa". Đó là những lời giới thiệu bạn sẽ tìm được dễ dàng trên mạng, và ngay cả ở trên bìa sách. Tuy nhiên, ở góc độ cảm nhận của riêng bản thân mình, câu chuyện về "dòng họ bị nguyền rủa" đó chỉ là lớp vỏ bọc của cái xứng đáng được gọi là "khúc tụng ca lao động là vinh quang", một khúc tụng ca mà so với nó những thứ như "Mùa lạc" nên được đem chôn đi chứ không nên nằm trang trọng trong quyển sách giáo khoa Văn học.

Mảnh đất đã gieo mầm nên cuốn tiểu thuyết này là một vùng đất miền Nam nước Ý đầy nắng, cái nắng có thể giết chết người và đã có người thật sự chết vì cái nắng đó giữa những trang sách, không giàu có như vùng công nghiệp phía Bắc với thành Milan nổi tiếng. Đó chỉ là một miền đất nghèo khó mà người ta có 2 lựa chọn, hoặc cố gắng lao động trong thân phận những con người vô sản và coi đó là niềm vui sống của cuộc đời mình, hoặc biến thành những kẻ sống trên xương máu người khác với đúng nghĩa đen của từ xương máu và có thể trở nên giàu có. Và mỗi con người của dòng họ đó trong quyển tiểu thuyết này đều chọn cho mình một thân phận, không phải cái thân phận khóc than lầm lũi mà là thân phận của một con người yêu quý từng ngọn gió, từng hòi sỏi, từng hơi nắng cháy da đầu. Họ chọn cách sống đó, cuộc sống đó vì họ yêu nó, một tình yêu ngây thơ của những đứa trẻ, sẵn sàng đón nhận nó chứ không phải vì được giác ngộ cách mạng hay bất cứ thứ gì tương tự. Bản chất của tình yêu là sự tự nguyện chứ không bao giờ là sự giác ngộ.

- Xem để biết có thể hiểu lờ mờ vì sao mafia lại có nguồn gốc và phát triển một cách mạnh mẽ ở miền nam một trong những đất nước lãng mạn nhất thế giới. Và để biết rằng cái nối kết tinh thần mafia không phải thực sự là những đồng tiền... (dĩ nhiên chỉ là lờ mờ cảm nhận của bản thân mình và có người sẽ bảo sao mà khiên cưỡng thế)

Và tình yêu của cái dòng họ ấy không chỉ là với miền nắng của mình. Họ yêu tất cả những gì thiết thân với họ, mà điều đầu tiên chính là dòng họ của mình, cái dòng họ bị nguyền rủa. Cho dù nó bị nguyền rủa thì nó cũng đã sản sinh ra họ, và họ đã sống vì nó, với niềm tự hào mãnh liệt, với một tình yêu lớn lao.

- Xem để biết rằng một quyển sách hay có thể làm bạn bật khóc, vì chính vẻ đẹp tự thân của nó chứ không vì một câu chuyện tình đẫm lệ hay một thân phận bị vùi dập trong nỗi đau số phận.

- Và xem để mỗi người có thể rút ra được một câu chuyện của riêng mình, để có thể kể với người khác về những con người giữa nắng cháy và khô cằn nhưng chưa bao giờ cằn cỗi trong tình yêu đó, tình yêu với nắng, với gió, với những cây ôliu, với cuộc đời và với cả những con người đã một thời từ chối mình...

Pic: Đây là cái bìa mình thích nhất trong những bìa đã search được từ internet của quyển sách này.

P.S: Mình muốn viết lại 1 cái review cho thật xứng với quyển sách này lắm nhưng lười quá. Hixhix

Friday, June 01, 2007

Nắng ở trên cao


Chơi game

Tôi theo P. lên tầng 5 siêu thị to nhất ở Phnom Penh. Tiếng nhạc từ máy nhảy, tiếng thắng xe róng rít trên mặt đường phát ra từ những hộp loa. Những hàng máy game xếp không đầy nổi gian phòng. Khách lác đác. Có lẽ một phần vì đã gần đến giờ đóng cửa. Không gian cứ như tan chảy ra, khác hẳn vẻ đặc quánh và ầm ĩ của Diamond Plaza ở Sài Gòn.

Đổi xu bên kia. - P. chỉ về bàn cashier ở góc phòng. Cô nàng cashier không xinh, cũng không nói được câu tiếng Anh nào, như một chiếc máy bán hàng tự động, cứ cầm tiền khách đưa rồi đếm xu trả lại.

Chia mấy đồng xu vừa mua cho tôi, P. ập ngay vào chiếc máy game giữa phòng. Nó giống một cái tủ đứng, ngăn trên gồm 4 mặt kệ với đầy những đồng tiền xu không biết đã có sẵn từ đời nào. Bốn chiếc cần đẩy ở 4 mặt "chiếc tủ" liên tục đẩy ra đẩy vào trên mặt kệ, như muốn xua những đồng tiền xu rớt xuống cái khay đựng bên dưới. Quanh "chiếc tủ", những cần gạt tua tủa, chờ nuốt xu của khách. P. thành thục bỏ một xu vào cái khe vừa vặn 1 đồng xu trên cần gạt, xoay nhẹ cần. Đồng xu lăn theo rồi rớt xuống mặt kệ, xếp hàng cao lên, chiếc cần đẩy chỉ chờ có thế ngay tắp lự đẩy hàng xu dài xuống khay. Ăn rồi! - P. reo như đứa trẻ được quà, tiếng Việt lạc lõng giữa tiếng Khmer xì xào xung quanh đang đứng xem. Một xu ăn hai. Không nhiều nhưng nếu tính theo tỉ lệ ăn kiểu chứng khoán thì P. đã giàu to. Chuẩn bị bỏ xu tiếp theo vào máy, P. chợt nhớ đến tôi, quay qua hất nhẹ đầu, ý bảo tôi chơi đi, đừng mãi đứng nhìn như thế rồi lại quay về với chiếc cần gạt.

Lựa chiếc cần ở mặt trái "chiếc tủ", tôi bỏ đồng xu P. chia vào, cũng xoay xoay cái cần. Cạch! Tiếng đồng xu rơi xuống mặt kệ. Cái cần đẩy chồm đến, những đồng xu bị xô chồng hàng lên nhau và... đứng bất động. Đồng xu thứ hai lăn nhẹ xuống đúng vị trí tôi muốn. Chiếc cần lại đẩy những đồng xu nhích lên thêm một tí rồi tiếp tục bất động. Chán! Tôi lầm rầm, quay qua xem P. P. chẳng thắng thêm lần nào nữa từ sau lần đầu đó. Những đồng xu vơi dần, P. xoay đầu nhìn bốn phía rồi chỉ vào chiếc máy game bắn súng ở cách một dãy máy.

Lại một chiếc hộp khác. Trò này thì không có chuyện thối lại tiền. P. bỏ xu vào khe, cầm cây súng và bắt đầu bắn. Những hình nhân zombie đi lại và nhào đến trước màn hình như muốn cắn xé người chơi. Súng! Bắn! Máu văng tung tóe. Tôi bỏ xu vào khe, không cần P. hướng dẫn, cầm cây súng thành thục như một nàng cowgirl. Oành! Cây súng trên tay tôi giật lên. Hiệu ứng cũng không tồi, nhưng đồ họa kém quá. Tôi tự nhủ. Đừng bắn vào người nha! - P. chợt la toáng lên như vừa nhớ ra, sợ tôi làm mất điểm của mình, một tay vẫn cầm súng, tay kia chuẩn bị bỏ thêm xu vào khe điều khiển súng. Tôi sững người mất một giây. Một tay tôi ngăn lại - Lấy cái này đi! - tay kia đưa P. cây súng vẫn còn rung bật bật sau cú bắn của mình. Đưa P. nốt những xu còn trong túi, tôi quay lưng đi ra ngoài.

Đầu phòng game, đèn trên dãy máy gắp thú nhấp nháy. Tôi đi lướt qua, vừa kịp nhìn thấy những con thú bông be bé giống hệt nhau. Chẳng ai hứng thú với trò chơi này, cũng có thể những con thú nhồi bông không đủ xinh xắn để thu hút các cô bé đi theo bạn trai vào đây chơi.

Chợt tôi cảm thấy không thể thở được. Một cơn đau nhói ngực ập đến. Tôi gập người, tựa hẳn vào bức tường phòng game. Những cung đường trong một trò đua xe bỗng chập chờn trong đầu. Cơn đau qua nhanh như khi đến. Lấy lại tư thế thẳng lưng, tôi bước xuống thang cuốn, trở về khu shopping ở tầng dưới.

Lướt qua những cửa hàng đang lục đục chuẩn bị đóng cửa, tôi đi như chạy khỏi toà nhà. Chạy về nơi có không khí. Cửa siêu thị ngay trước mặt. Gió mang hơi đất ùa vào phổi, không phải mùi hanh khô của những chiếc máy lạnh. Tiếng thắng xe và những cung đường đua vẫn tiếp tục chập chờn. Đường phố vắng vẻ, không có tiếng máy xe, không có khói bụi. Tôi đang ở Phnom Penh. Tôi đang ở Phnom Penh. Không phải Sài Gòn. Không phải Super Bowl. Nhưng tại sao chữ Super Bowl lại chợt hiện ra?

Trời! Xuống đây mà không nói làm P. kiếm lòng vòng nãy giờ. - Giọng P. trách móc cắt ngang những con chữ nhảy múa trong đầu tôi...

To be continued...

Thursday, May 31, 2007

Chàng Đỏ - Somerset Maugham (3)



- Người ta bảo bên Mỹ bây giờ có nhiều cocain lắm. - Viên thuyền trưởng nói.

Ninxơn cười thành tiếng.

- Nhưng tôi có hay gặp người da trắng đâu nhỉ, - ông nói tiếp, mà chỉ một lần thì tôi nghĩ mấy giọt uytki cũng chẳng gây hại gì cho tôi.

Ông bèn rót cho mình một ít, cho thêm chút xô-đa rồi làm một hớp.

- Thế rồi chẳng bao lâu tôi mới vỡ lẽ ra tại sao cái nơi này lại có một vẻ đáng yêu thần tiên làm vậy. Ở đây tình yêu đã lưu lại trong khoảnh khắc như con chim di cư tình cờ gặp một con tàu giữa đại dương, và trong chốc lát nó cụp đôi cánh rã rời lại. Cái đam mê đẹp đẽ hiện rành rành ra và hương vị của một mối tình đằm thắm còn phảng phất quanh đây giống như hương sơn trà tháng năm trên đồng cỏ quê tôi. Tôi thấy hình như những nơi mà ta đã từng yêu thương hay đau khổ đều để lại ít hương vị man mát nào đó không bao giờ tan đi hoàn toàn. Như thế chúng đã giành được một ý nghĩa tinh thần mà nó tác động một cách bí ẩn lên những kẻ đã trải qua. Ước gì tôi có thể làm sáng tỏ ý mình được nhỉ. - Ông hơi mỉm cười - Dầu tôi không dám nghĩ nếu tôi có nói được hết ý mình thì chắc gì ông đã hiểu.

Ông ngừng lời.

- Tôi nghĩ chỗ này đẹp, bởi vì ở đây tôi đã được yêu một cách đẹp đẽ. - Nói rồi ông nhún vai. - Nhưng có lẽ chỉ là tại cái cảm quan mỹ học của tôi được sự kết hợp may mắn của tình yêu tươi trẻ và một khung cảnh thích hợp ban thưởng cho.

Ngay một kẻ không đến nỗi ù lỳ như gã thuyền trưởng chắc cũng được tha thứ, nếu như anh ta có hoang mang trước những lời nói của Ninxơn. Vì hình như ông có hơi cười nhẹ những điều mình nói, Dường như lời ông nói xuất phát từ cái cảm xúc mà lý trí ông thấy nực cười. Ông tự nhận mình là một người đa cảm, mà khi tính đa cảm gắn với sự hoài nghi thì chỉ đẻ ra lắm chuyện oái oăm.

Ông yên lặng một lát và nhìn viên thuyền trưởng bằng cặp mắt trong đó toát ra sự ngỡ ngàng đột ngột.

- Ông này, tôi không thể không nghĩ là đã trông thấy ông ở đâu đó trước kia, - ông nói.

- Tôi không thể nói là tôi có nhớ gặp ông hồi nào, - viên thuyền trưởng đáp lại.

- Tôi có cảm giác ngồ ngộ là hình như khuôn mặt ông rất quen đối với tôi. Nó làm tôi băn khoăn mất một lúc. Nhưng tôi không tài nào lục được trong trí nhớ ra là đã gặp ở chỗ nào hay là vào lúc nào.

Viên thuyền trưởng nhún đôi vai nặng nề.

- Đã ba mươi năm rồi kể từ khi tôi lần đầu tiên bước lên trên những hòn đảo này. Người ta không tài nào ghi nhớ hết những người đã gặp gỡ trong giây lát thế này.

Người đàn ông Thụy Điển lắc đầu.

- Ông có biết đôi khi người ta có cảm tưởng là một nơi anh ta chưa hề đến lần nào trước kia lại quen thuộc đến lạ lùng không? Cũng như tôi có cảm tưởng nhìn thấy ông đây, - ông nở một nụ cười kỳ dị. - Có lẽ , có lẽ ông là chủ một chiếc thuyền galê (1) thời La Mã cổ đại, còn tôi là cái anh nô lệ chèo thuyền. Ông ở đây đã ba mươi năm?

- Lác đác suốt ba mươi năm.

- Thế ông có biết một người đàn ông tên là Chàng Đỏ không?

- Chàng Đỏ?

- Đấy chỉ là cái tên mà tôi biết về anh ta. Bản thân tôi chưa được biết anh ta. Tôi chưa được thấy anh ta tận mắt, ấy thế nhưng hình như tôi thấy anh ta còn rõ hơn nhiều người khác, chẳng hạn rõ hơn anh em tôi, những người tôi đã cùng sống hàng ngày trong bao nhiêu năm. Anh ta sống trong tâm tưởng tôi rõ nét như một Paolô Malatexta (2) hay một Rômeô (3). Mà không rõ đã có khi nào ông đọc Đăngtơ hay Sếchxpia chưa nhỉ?

- Tôi không thể bảo là tôi đã đọc rồi, - viên thuyền trưởng nói.

Ninxơn, miệng ngậm điếu xì gà, ngả người ra ghế lơ đễnh nhìn cuộc khói thuốc đang bơi trong không gian tĩnh lặng. Một nụ cười giỡn trên môi, nhưng cặp mắt ông vẫn nghiêm nghị. Rồi ông nhìn sang viên thuyền trưởng. Trong sự phì nộn thô thiển của gã có vẻ gì đó tơm tởm khác thường. Gã có cái vẻ thừa mứa mãn nguyện trong chính lớp mỡ béo. Thật là một sự lăng mạ. Nó đẩy thần kinh Ninxơn đến giới hạn chịu đựng. Nhưng sự tương phản giữa kẻ ngồi trước ông và kẻ nằm trong trí óc ông thật thú vị.

- Có vẻ như Chàng Đỏ là một anh chàng duyên dáng nhất mà người ta gặp được. Tôi đã chuyện trò với một số người biết anh ta hồi đó, những người da trắng ấy mà, và họ đều đồng ý là nếu anh trông thấy anh ta lần đầu tiên thì vẻ đẹp của anh ta hẳn sẽ làm anh sửng sốt. Người ta gọi anh ta là Chàng Đỏ là do bộ tóc rực lửa của anh ta. Bộ tóc ấy lượn sóng tự nhiên và được để dài. Nó chắc phải có cái sắc màu tuyệt diệu mà các nhà tiền Raphaen (4) vẫn nháo nhào tìm kiếm. Tôi nghĩ anh ta không ngạo mạn vì bộ tóc ấy, anh ta quá chân thật, nào biết đến sự ngạo mạn, nhưng nếu có đi nữa, thì cũng không ai trách anh ta được. Anh ta cao sáu bộ, một hai insơ gì đó. Trong gian nhà thổ dân trước ở chỗ này có vết đánh dấu chiều cao anh ta bằng dao ở cái cột chống mái chính giữa ấy - an ta được tạo nặn như một thánh thần Hy Lạp vai rộng và sườn mảnh; anh ta giống như thần Apôlô với cái vẻ tròn trịa mềm mại mà Praxiten (5) đã đắp nên, với cái vẻ yêu kiều hồn nhiên của thanh nữ ấp bên trong một cái gì xáo động huyền bí. Da anh trắng phau, mịn màng như xa-tanh, như da dẻ phụ nữ vậy.

- Tôi cũng có làn da trắng hồi còn bé, - viên thuyền trưởng nói, cặp mắt vằn tia máu ánh lên.

Nhưng Ninxơn không chú ý gì đến gã. Ông đang đà kể chuyện nên sự cắt ngang làm ông sốt ruột.

- Mặt anh ta cũng đẹp như thân hình anh ta. Anh ta có cặp mắt to màu xanh, rất thẫm, đến nỗi có người bảo là màu đen, và không giống với đa số những người tóc đỏ, anh ta có hàng lông mày sẫm, lông mi cũng sẫm và dài. Đường nét anh ta đều đặn đến hoàn hảo, và miệng thì như một vết thương đỏ chói. Anh ta mới hai mươi tuổi. - Nói đến đây người đàn ông Thụy Điển dừng lại với một cảm giác lâm ly nào đó. Ông uống một hớp uytki.

- Anh ta thật là có một không hai. Chưa bao giờ có ai đẹp hơn được. Chẳng khác nào một bông hoa tuyệt vời nở trên cái cây hoang dại. Anh ta là sự ngẫu hợp tài tình của tự nhiên.

Một hôm anh ta đã cập vào chính cái vịnh mà chắc ông đã vào sáng nay. Anh ta là thủy thủ Mỹ, đào ngủ khỏi một chiếc tàu chiến ở Apia. Anh ta đã thuyết phục được một số thổ dân dễ tính cho đi nhờ trên một chiếc ca-nô vẫn hay chạy từ Apia đến Xaphôtô và được đưa lên bờ bằng xuồng độc mộc. Tôi không rõ tại sao anh ta lại đào ngũ. Có thể cuộc sống trên chiếc tàu chiến với những kỷ cương của nó khiến anh ta chán ngán, có thể anh ta có chuyện gì không hay, cũng có thể vùng biển Nam này và những hòn đảo thơ mộng kia đã thấm đậm vào tâm can anh ta. Lắm khi cái cảnh vật ấy nó chộp lấy con người ta một cách lạ lùng, và anh bỗng thấy mình như con ruồi mắc trong cái mạng nhện. Chắc là trong gân cốt anh ta có một sự mềm yếu nào đó và những ngọn đồi xanh mát này, với không khí mềm dịu, và biển xanh này đã rút mất ở anh ta cái sức mạnh phương bắc như Dêlila rút của anh chàng người Nazarit (6). Dù thế này hay thế khác, anh ta muốn trốn đi và đã nghĩ rằng sẽ an toàn ở cái xó hẻo lánh này cho đến khi tàu của anh ta rời Xamoa.

(1): một loại thuyền buồm dài, thấp có dãy mái chèo thường do nô lệ chèo thời cổ.
(2): nhân vật Hài kịch thánh thần của Đantê, Paolô say đắm vợ của người anh Giôvanni của mình là Phranxexca và cả hai bị Giôvanni giết chết.
(3): nhân vật trong bi kịch Romeo và Juliet của Sếchxpia, thi hào Anh (1564-1616). Hai người yêu nhau tha thiết và thà cùng chết với nhau hơn là sống lẻ loi và được coi là một cặp tình nhân lý tưởng.
(4): hội viên của hội Tình anh em tiền Raphaen - Proraphaelite Brotherhood - thành lập năm 1848 ở Anh - có tôn chỉ là khuyến khích tính trung thành với tự nhiên, tính tinh xảo trọn vẹn (như trong tác phẩm của các họa sĩ thời kỳ tiền Raphaen) trong hội họa và thơ ca, phê bình.
(5): nhà điêu khắc Hy Lap thế kỷ IV trC.N., tác giả bức tượng Apolo mà bản sao hiện ở bảo tàng Louvre - Paris
(6): theo truyền thuyết Kinh thánh, Xamxơn người Nazarit có sức khỏe phi thường, là người anh hùng của dân tộc Ixraen, đã yêu Dêlila, kẻ bị người Philixtin, kẻ thù không đội trời chung của Ixraen, mua chuộc. Dêlila đã phát hiện sức mạnh của Xamxơn là ở mái tóc của anh ta, chưa được cắt từ hồi sinh ra. Sau khi ru cho Xamxơn ngủ trên đùi mình, Dêlila đã cho người cắt bảy món tóc của anh, làm anh mất sức mạnh và bị người Philixin bắt làm tù binh.



Sunday, April 22, 2007

Chàng Đỏ - Somerset Maugham (2)



- Qua những cái cầu như thế này khi chưa quen cũng tốn chút ít thần kinh đấy chứ.

Gã ngẩng lên nhìn và thấy một người đàn ông đang đứng trước mặt. Ắt hẳn ông ta từ cái nhà mà gã trông thấy đi ra.

- Tôi thấy ông ngập ngừng, - người đàn ông tiếp tục nói với nụ cười trên môi, - và tôi chỉ rình được thấy ông ngã.

- Có mà đến mục thất nhà ông, - viên thuyền trưởng nói, lúc này đã lấy được vẻ tự tin.

- Chính tôi trước kia cũng đã từng ngã. Tối nhớ là có một buổi tối đi săn về, tôi đã ngã, đánh rơi cả súng. Giờ thì tôi cho một cậu bé mang súng cho tôi.

Người đàn ông không còn trẻ nữa, có một bộ râu nhỏ giờ đã điểm bạc, và một khuôn mặt thuôn gầy. Ông ta mặc áo lót không tay và cái quần vải bông. Ông ta chẳng đi giày, tất gì cả. Ông ta nói tiếng Anh bằng một giọng hơi lơ lớ.

- Ông là Ninxơn? - Viên thuyền trưởng hỏi.

- Tôi đây.

- Tôi có nghe nói về ông. Tôi đoán là ông sống quanh quanh đâu đây.

Viên thuyền trưởng theo chủ nhân đi vào căn nhà một tầng và nặng nề ngồi xuống cái ghế mà người kia chỉ cho. Trong lúc Ninxơn đi ra ngoài kiếm rượu uytki, gã nhìn quanh gian nhà một lượt. Nó làm gã đầy sửng sốt. Chưa bao giờ gã thấy lắm sách đến vậy. Các giá đặt từ sàn lên đến trần ở cả bốn phía tường mà cái nào cũng chứa chật cả. Một cây đàn pianô lớn bày bừa các bản nhạc, và một cái bàn rộng trên đó sách vở tạp chí để bề bộn. Gian buồng làm gã thấy bối rối. Gã nhớ rằng Ninxơn là một tay kỳ quặc. Không ai biết về ông ta nhiều lắm, tuy ông ta đã ở đảo lâu, nhưng những ai biết ông ta đều đồng ý rằng ông ta kỳ quặc. Ông ta người Thuỵ Điển.

- Ông có một tủ sách to quá nhỉ, - gã nói, khi Ninxơn quay vào.

- Chúng cũng chẳng hại gì, - Ninxơn đáp với một nụ cười.

- Ông đã đọc tất cả số sách ấy rồi sao? - Viên thuyền trưởng hỏi.

- Cũng gần tất cả.

- Tôi cũng có đọc chút ít. Tôi vẫn đặt mua báo "Bưu điện tối thứ bảy".

Ninxơn rót cho khách một cốc rượu uytki khá mạnh và đưa cho gã một điếu xì-gà. Viên thuyền trưởng hởi dạ thông báo đôi điều tin tức:

- Tôi đến hôm qua, mà không tài nào tìm ra khe nước, nên phải bỏ neo phía ngoài. Tôi chưa chạy đường này bao giờm nhưng mấy cha bên tôi chở mấy thứ qua đây. Ông có biết Grây không?

- Vâng, anh ta có cái cửa hàng cách đây một đoạn đường.

- Phải, ở đấy có rất nhiều đồ hộp anh ta muốn được chở đến, với lại anh ta cần cả ít cùi dừa khô nữa. Họ cho là tôi cứ nên qua đây, nằm ườn ở Apia thì cũng thế. Tôi vẫn chạy đường Apia và Pago-Pago đấy chứ, nhưng vừa mới phát dịch đậu mùa ở đấy, nên chẳng có cóc khô gì để làm cả.

Gã uống một hớp rượu uytki và châm điếu xì gà. Gã vốn lầm kì, nhưng có cái gì đó trong con người Ninxơn khiến gã bị kích động làm gã cất tiếng. Người đàn ông Thuỵ Điển ngắm gã bằng cặp mắt to, đen, trong đó hơi thể hiện vẻ giễu cợt thích thú.

- Ông có cái chỗ xinh đáo để.

- Tôi cũng phải bỏ ra nhiều công sức đấy,

- Với chỗ cây này ông cũng khấm khá đấy nhỉ. Trông hay thật. Cùi dừa khô bây giờ đang được giá đấy. Tôi cũng đã có thời có ít đồn điền ở Upôlu (1), nhưng tôi đã phải bán đi rồi.

Gã nhìn quanh gian nhà một lần nữa, tất cả những quyển sách kia gợi cho gã một cảm giác khó hiểu và thù địch nào đó.

- Chắc ở đây ông thấy hơi buồn nhỉ? - Gã nói.

- Tôi đã quen rồi. Tôi ở đây đã hai mươi lăm năm.

Lúc này viên thuyền trưởng chẳng còn nghĩ ra chuyện gì để nói nữa, nên gã im lặng hút thuốc. Ninxơn hiển nhiên không tỏ ý muốn phá vỡ sự yên lặng. Ông nhìn khách bằng con mắt nghĩ ngợi. Gã có vóc người cao hơn sáu bộ, và rất mập. Mặt gã đỏ và đầy vết bẩn, với một mạng mao mạch màu tía trên má, những đường nét bị chìm vào trong sự phì nộn. Mắt gã vằn tia máu. Cổ bị vùi trong những ngấn mỡ. Nếu không có một món tóc quăn và sài, gần như màu trắng ở phía gáy, thì đầu gã hoàn toàn hói; và cái bề mặt trán thênh thang, bóng láng kia đáng lẽ phải tạo cái dáng uyên bác giả tao, thì nó lại tạo cho gã một vẻ đần độn đặc biệt. Gã mặc sơ mi xanh lơ bằng vải phlanen, phanh cổ và phơi bày bộ ngực béo phủ một mảng lông đo đỏ. Chiếc quần xanh rất cũ bằng vải xéc. Gã ngồi trên ghế trong một tư thế vụng về, nặng nề, cái bụnbg vĩ đại chìa ra phía trước và đôi bắp chân mập không bắt chéo. Mọi đặc tính đàn hồi đã thoát ra khỏi chân tay gã. Ninxơn trầm ngâm tự hỏi không hiểu thời trẻ gã thuộc loại người nào. Hình như không thể hình dung ra nổi cái tấm thân đồ sộ kia đã từng là một cậu bé chạy tung tăng. Viên thuyền trưởng đã uống hết cốc uytki và Ninxơn đẩy cái chai về phía gã.

- Xin mời ông.

Viên thuyền trưởng rướn người về phía trước và lấy tay tóm lấy chai rượu.

- Thế sao ông lại tới cái xứ này? - Gã hỏi.

- Ồ, tôi đến các đảo nơi đây là vì chuyện sức khoẻ. Phổi tôi hồi đó rất tồi, và người ta bảo tôi sẽ không sống nổi một năm nữa. Ông thấy đấy, người ta đã nhầm.

- Tôi muốn hỏi làm sao ông lại an cư ở chính nơi đây?

- Tôi là một người đa cảm.

- Chà!

Ninxơn biết viên thuyền trưởng chẳng hiểu gì điều ông nói, và ông nhìn gã với một ánh mỉa mai trong đôi mắt đen của ông. Có lẽ chính vì viên thuyền trưởng là một kẻ quá thô phàm và đầy độn nên ông thấy muốn hăng nói nữa.

- Ông phải lo giữ thăng bằng quá lúc qua cầu nên không nhận ra rằng chỗ này nói chung là khá đẹp đấy.

- Ông có căn nhà nho nhỏ đáng yêu thật.

- À, đây không phải nơi tôi đến ở lúc đầu. Nơi đây có một túp lều của thổ dân, mái tổ ong và kèo cột, núp bóng một cây to hoa đỏ, còn những bụi cây ba đậu, lá vàng, lá đỏ ánh lên làm thành một hàng rào xung quanh. Rồi chung quanh lại toàn những cây dừa, lạ lùng như đàn bà, và cũng kiêu kỳ như thế. Chúng đứng bên mép nước và cả ngày soi bóng mình xuống đó. Hồi ấy tôi còn thanh niên. Trời, cái thuở một phần tư thế kỷ về trước - tôi đã muốn hưởng trọn vẹn vẻ đáng yêu của thế gian trong khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại trước khi bước vào cõi hư vô. Tôi nghĩ đấy là chỗ đẹp nhất tôi từng gặp. Lúc đầu trông thấy, tôi đã sững sờ, e rằng mình sắp phát khóc lên. Bấy giờ chưa quá hăm lăm, và cho dù tôi đã lấy hết can đảm nhìn thẳng vào số mệnh, tôi vẫn không muốn chết. Thế rồi hình như chính cái vẻ đẹp nơi này đã làm tôi dễ dàng chấp nhận số mệnh của mình hơn. Tôi cảm thấy là khi tôi đến đây, tất cả quãng đời quá khứ đã rơi tuột đi mất. Xtốckhôm với Trường đại học tổng hợp của nó, rồi thì Bon; tất cả cứ như cuộc đời của một người nào khác, như thể lúc này rốt cuộc tôi đã đạt đến cái hiện thực mà các vị tiến sĩ triết học - tôi cũng là một tiến sĩ triết, - đã từng tranh cãi khá nhiều. "Một năm" - tôi thốt lên với chính mình, - "Ta có một năm. Ta sẽ dùng nó ở nơi đây và rồi ta sẽ bằng lòng nhắm mắt xuôi tay". Chúng ta đều ngốc nghếch, đa cảm và hay xúc động ở cái tuổi hăm lăm, nhưng giá chúng ta không như vậy thì có lẽ chúng ta sẽ kém sáng suốt hơn ở cái tuổi năm mươi. Nào uống đi, ông bạn. Đừng để những chuyện dấm dớ xen vào. Ông vẫy bàn tay về phía cái chai, và viên thuyền trưởng cạn nốt phần rượu trong cốc.

- Ông chẳng uống tí nào cả, - gã nói, tay với chai uytki.

- Tôi không nghiện, người đàn ông Thuỵ Điển mỉm cười - Tôi tự đầu độc mình bằng những cách tôi tưởng là còn tinh tế hơn. Nhưng có lẽ nó chỉ là chuyện huyễn hoặc. Dẫu sao, tác động kéo dài hơn và kết quả cũng độc hại hơn.

(1): Một trong chín hòn đảo ở Tây Xamoa, có trung tâm hành chính là Apia


To be continued

Chàng Đỏ - Somerset Maugham (1)

Viên thuyền trưởng thọc tay vào một bên túi quần với vẻ khó khăn, vì nó không nằm ở bên sườn mà lại ở đằng trước, đã thế gã lại to béo; gã rút ra chiếc đồng hồ to bằng bạc. Gã nhìn đồng hồ rồi lại nhìn lên mặt trời đang xé. Anh chàng người Kanaka ở mạn trái đưa mắt nhìn viên thuyền trưởng, nhưng không nói gì. Mắt viên thuyền trưởng dừng lại ở hòn đảo mà họ đang tiến lại gần. Một vệt bọt trắng ghi dấu đá ngầm. Đã biết rằng chỗ này có một khe nước đủ rộng cho con tàu đi qua, khi họ tới gần hơn, gã tính sẽ trông thấy. Họ còn có gần một tiếng nữa trước khi mặt trời lặn. Trong vịnh nước sâu, họ sẽ có thể thả neo thoải mái. Hương trưởng làng mà gã nhìn thấy giữa đám cây dừa kia là bạn của viên thuyền phó, lên bờ một đêm cũng dễ chịu. Viên thuyền phó tiến về phía trước và đúng lúc ấy viên thuyền trưởng quay về phía anh ta.

- Ta sẽ làm một chai rượu và rủ dăm cô gái lên nhảy, - gã nói.

- Tôi chẳng thấy khe nước đâu, - viên thuyền phó đáp.

Anh ta người Kanaka, đẹp trai, da ngăm đen, nom phần nào từa tựa như một Hoàng đế La Mã hậu sinh, đang đà chắc mập; nhưng khuôn mặt mịn màng và nhẵn nhụi.

- Tôi cầm chắc là nó ở ngay đây thôi, - viên thuyền trưởng vừa nói vừa nhìn qua cặp kính. - Tôi không hiểu tại sao ta lại không nom thấy. Thử cho một đứa trèo lên cột buồm ngó xem sao.


- Thuyền phó gọi một thủy thủ đế và ra lệnh. Viên thuyền trưởng dõi theo anh chàng thủy thủ người Kanaka leo lên và chờ anh ta báo. Nhưng anh ta nói vọng xuống là anh ta không trông thấy gì ngoài cái vệt bọt kia. Viên thuyền trưởng nói tiếng Xamoa như một thổ dân, gã chửi tục một các thoải mái.

- Cho nó ở trên ấy nữa hay không? - Viên thuyền phó hỏi.

- Ở trên ấy làm mẹ gì nữa? - Viên thuyền trưởng đáp. - Cái đồ ngốc nghếch chết tiệt ấy làm sao mà thấy được cái gì. Đánh cuộc với ông là thể nào tôi cũng tìm được cái khe nước nếu tôi lên trên ấy.

Gã tức giận nhìn cái cột buồm thanh mảnh. Thật rất hợp với một đứa thổ dân vốn vẫn quen trèo dừa suốt đời. Còn gã thì béo và nặng nề.

- Xuống đi, - gã kêu to. - Mày chẳng tích sự gì hơn đồ chó chết. Ta đành phải đi dọc dãy đá ngầm đến bao giờ tìm được khe nước mới thôi.

Đó là một chiếc tàu buồm bảy mươi tấn có động cơ chạy bằng paraphin. Khi không có gió ngược, nó chạy quãng bốn năm dặm một giờ. Chiếc tàu đã cũ được sơn trắng từ dạo lâu lắm rồi, nay nó vừa bẩn, vừa dơ, lốm đốm những vết. Nó sặc mùi paraphin và mùi dừa khô là thứ hàng chở thường xuyên. Họ chỉ còn cách dãy đá ngầm một trăm bộ và viên thuyền trưởng bảo người lái chạy men theo đá ngầm cho đến khi tới khe nước. Nhưn khi đã đi được một vài dặm, anh ta mới nhận ra là đã mất dấu. Anh ta trở buồm và từ từ cho lui lại. Bọt trắng của đá ngầm tiếp nối không hề đứt đoạn, và lúc này mặt trời đang lặn. Chửi cho sự ngu ngốc của kíp thủy thủ một câu, viên thuyền trường đành chịu đợi cho đến sáng hôm sau.

- Xoay buồm lại, - gã nói. - Làm sao bỏ neo ở đây được.

- Họ lại quay ra khơi chút ít, và giờ trời đã tối hẳn. Họ bỏ neo. Khi buồm đã cuộn, con tàu bắt đầu lắc lư mạnh. Ở Apia người ta nói rằng một ngày kia thể nào nó cũng lắc lư đến lật thì thôi; còn người chủ, một người Mỹ gốc Đức cai quản một trong những cửa hiệu lớn nhất thì bảo có các bao nhiêu tiền, anh ta cũng không chui vào cái tàu này. Anh bếp, người Trung Quốc mặc cái quần trắng, chạy ra nói là bữa ăn đã sẵn sàng; và khi viên thuyền trưởng bước vào ca bin, gã đã thấy người thợ máy ngồi ở bàn. Anh thợ máy người dài, gầy với cái ổ ngẳng. Anh ta mặc bộ quần áo làm việc màu xanh lơ và cái áo len cộc tay để lộ ra cái cẳng tay khẳng khiu xăm từ khuỷu đến cổ tay.

- Bố sư khỉ, phải ngủ đêm ngoài biển mất thôi, - viên thuyền trưởng nói.

Người thợ máy không trả lời, và họ ăn trong sự im lặng. Cabin được soi sáng bởi một ngọn đèn dầu tù mù. Khi họ ăn hết món mơ hộp cuối mỗi bữa ăn, thì anh bếp bưng một tách trà vào. Viên thuyền trưởng đốt điếu xì gà và bước lên boong trên. Hòn đảo bây giờ chỉ là một khối đen sẫm trong đêm. Những vì sao rất sáng. Âm thanh suy nhất là tiếng sóng cồn vỗ không dứt. Viên thuyền trưởng thả người xuống một chiếc ghế và uể oải hút thuốc. Rồi có ba bốn thủy thủ tiến đến và ngồi xuống. Một người có cây đàn băng-giô và một người khác có một chiếc côngxéctina (1) . Họ dạo nhạc, và một người cất tiếng hát. Bài hát thổ dân vang lên một cách lạ lùng trong âm hưởng của những nhạc cụ kia. Rồi một cặp bắt đầu nhảy theo tiếng hát. Một vũ điệu dã man, nguyên thuỷ, hoang sơ, dồn dập, với những động tác mau lẹ của tay chân và sự uốn éo của thên hình: một điệu nhảy nhục cảm, thậm chí còn xác thịt, xác thịt mà thiếu dục vọng. Nó rất thú vật, rạch ròi, kỳ quặc mà không thần bí, tóm lại là tự nhiên gần như có thể gọi là trẻ con. Cuối cùng họ thấm mệt. Họ nằm ngả trên boong và ngủ, mọi vật đều yên lặng. Viên thuyền trưởng nặng nề nhấc thân mình khỏi ghế ngồi và lồm cồm bò qua một bạn đồng hành. Gã đi vào cabin và cởi quần áo ra, lên giường nằm. Gã thở hổn hểnh trong cái nóng của đêm.

Sáng hôm sau, khi hừng đông bò lên trên mặt biển êm lặng, khe nước giữa đá ngầm lẩn khỏi mắt họ đêm trước giờ đã hiện ra chênh chếch một chút về phía đông của nơi họ đậu. Chiếc tàu buồm tiến vào vịnh. Không có lấy một gợn sóng trên mặt nước. Sâu dưới những tảng đá san hô người ta thấy cá con đủ các màu bơi lượn. Khi đã thả neo đâu vào đấy, viên thuyền trưởng ăn bữa sáng và đi lên boong. Mặt trời toả chiếu trên bầu trời không mây, nhưng vào buổi sáng sớm thế này, không khí mát mẻ và dễ chịu. Hôm đó là ngày chủ nhật nên có một cảm giác tĩnh tại, yên ắng, như thể thiên nhiên đã đi nghỉ, điều ấy tạo cho gã một vẻ khoan khoái đặc biệt. Gã ngồi nhìn bờ cây um tùm, cảm thấy biếng nhác và thư thái trong lòng. Ngay sau đó có một nụ cười chậm rãi làm động đôi môi gã, gã ném mẩu xì gà xuống nước.

- Ta phải lên bờ mới được, - gã lên tiếng. - Cho thuyền ra nào!

Gã vụng về trèo xuống thang và chiếc thuyền chèo vào ngách vịnh con con. Những cây dừa tiến sát xuống tận mép nước, không thành hàng, mà dàn ra với một nghi thức định sẵn. Nom chúng giống vũ điệu ba-lê của các bà cô không chồng, tuổi đã lớn nhưng vẫn lả lơi, làm điệu làm bộ với vẻ duyên dáng màu mè của một thời đã trôi qua. Gã khệnh khạng đi qua đám dừa, dọc theo con đường trông rõ nét uốn lượn quanh co, chẳng mấy chốc nó dẫn gã tới một con lạch rộng. Một cái cầu bắc qua, làm bằng những thân cây dừa có khoảng một tá thân cây thành hàng một, đặt nối đầu với nhau và ở giữa chỗ nối được đỡ bằng một cây chạc cắm xuống lòng lạch. Bạn phải bước trên một bề mặt tròn, nhẵn, lại hẹp và trơn, mà không có tay vịnh. Để qua cái cầu như thế đòi hỏi phải có một đôi chân chắc chắn và một con tim vững vàng. Viên thuyền trưởng ngập ngừng. Nhưng gã trông thấy bờ bên kia, nép dưới bóng cây là một ngôi nhà của người da trắng; gã quả quyết, và khá là rón rén, gã bắt đầu bước đi. Gã quan sát đôi chân cẩn thận, và mỗi khi gặp một chỗ nối thân cây mấp mô, gã hơi loạng choạng. Với tiếng thở phào nhẹ nhõm, gã đã đi tới cái cây cuối cùng và sau rốt đặt được chân lên nền đất cứng của bờ bên kia. Gã để tâm chăm chú vào việc qua cầu khó khăn này, nên không nhận thấy có người quan sát gã, và thật là ngạc nhiên khi gã nghe tiếng người nói với mình.

(1): một loại nhạc cụ nhỏ kiểu acocđêông, có nút ấn và dải xếp nếp

To be continued...

Thursday, April 19, 2007

Đảo tường vy - An Ni Bảo Bối


Phần 1 - Cứ đi, cứ đi
13. Nhớ lại tình yêu (p.111-112)


Trên đường đi chợt nhớ lại các cuộc tình. Cảm thấy tình yêu đẹp nhất là hai người bầu bạn với nhau.

Không cần ràng buộc, không cần vòng vo, không cần sở hữu, không cần khát vọng khai thác được ý nghĩa gì từ bạn tình. Đó là thứ đã xác định phải hụt hẫng. Nhưng phải là hai chúng ta được xếp cạnh nhau, đứng ngắm cái nhân gian vắng vẻ này.

Có hai căn phòng độc lập, mỗi người đều làm việc trong phòng riêng.

Cùng đi ăn tối ngoài tiệm.

Lúc đi dạo có rất nhiều chuyện để nói.

Lúc ôm nhau, thấy được an toàn.

Không xâm phạm tự do của nhau. Không sợ anh vẫn liên lạc với bạn gái cũ.

Không bày tỏ tình cảm gì cho nhau. Bày tỏ là tìm lấy sự thay đổi.

Rất bình dị. Rất quen thuộc. Dường như mùi của anh chính là mùi trên cơ thể bạn.

Bất luận ở đâu và khi nào đều cần phải giữ cho nhau một khoảng cách.

Có thể bỏ đi bất cứ lúc nào.

Khi muốn yên tĩnh, dù anh ở bên cạnh cũng giống như đang ở một mình.

Có một phong cách sống riêng, bao gồm cả quần áo, đĩa nhạc, nước hoa, thức ăn...

Không quá nhớ nhung nhau, nhưng khi mệt mỏi vẫn biết anh là nhà.

Chúng ta rất dễ đụng nhau, bởi đều là những người ích kỷ hoặc ngu ngốc. Bọn họ yêu những người khác chỉ để chứng minh người khác cũng yêu họ. Hoặc đã tóm được trong tay, tiếc không nỡ buông, mãi cho đến khi vật nắm trong tay đã chết đi.

Tình cảm chín muồi cần mất thời gian chờ kết trái. Nhưng chúng ta đều mất kiên nhẫn. Ai có thể mất mười năm chờ đợi một người bỏ đi phương xa? Ai có thể sau mười năm tha phương vẫn quay về tìm lại người xưa cũ. Có những tình yêu do quá sốt sắng muốn đạt được danh lợi, không có cách được chứng minh, thế nên cũng không thành.




Cứ đọc An Ni Bảo Bối là lại tưởng đọc nhầm nhật ký của chính mình. Cái cảm giác đọc nhật ký của mình nhưng không phải do mình viết ra từ Hoa bên bờ đã là một trải nghiệm lạ. Vốn dĩ Hoa bên bờ được đặt trong bối cảnh Thượng Hải nên có đoạn rất sáng rõ nhưng cũng có những đoạn thật lu mờ. Trải nghiệm với Đảo tường vy thì hoàn toàn rất rõ ràng vì bối cảnh chính của nó là Việt Nam, với đầy đủ Sài Gòn, Hà Nội, Đà Lạt, Huế, Hội An... Từng ánh mắt của những con người nơi góc phố, từng quán ăn chen đầy những anh Tây ba lô hay những cô du khách Nhật đều là những gì đã từng trải nghiệm thật sự...


Ghi chú: Trong phần đầu của Đảo tường vy, An Ni Bảo Bối có viết về vùng đất tên Đại Lải với những ngôi biệt thự kiểu Pháp, núi, đồi và một rạp phim duy nhất "có một cái tên rất xa vời, được gọi là Một phần ba lại bốn. Hoặc là Một phần bốn lại ba." (p.24) Rồi cũng kịp nhận diện 2 cái tên này. Đại Lải tức là Đà Lạt (chứ không phải Đại Lãnh như trong đầu mình cứ lặp đi lặp lại vì sự thật là đang rất muốn được đi Đại Lãnh) và cái rạp phim đó là rạp 3-4. Có điều không hiểu là vì sao người biên tập sách không bị chú thêm sau khi đã chuyển ngữ nhỉ?!

Ảnh: Rạp 3-4 @ Đà Lạt - from Alamy




Sunday, April 15, 2007

Làm nhà văn không dễ tí nào


Diễn đạt cảm xúc của mình thành lời văn thì ra khó đến như vậy. Cô không biết những nhà văn khác gặp loại khó khăn nào trong quá trình sáng tác, nhưng chắc hẳn nếu sau này có ai đó hỏi, cô sẽ bảo với họ rằng đó chính là trở ngại lớn nhất của cô.

Khi bạn kiếm sống bằng việc mỗi ngày ngồi tám giờ trước máy vi tính chỉ để viết thì bạn hoàn toàn không nghĩ rằng viết lách lại cực nhọc như vậy. Nhưng việc kiếm sống đó, cái công việc mà cô thường gọi bằng cái tên “thợ viết” lại hoàn toàn khác hẳn “công việc viết văn” này. Mỗi ngày cô sẽ nhận được yêu cầu từ sếp, rằng hôm nay chúng ta cần n bài với n là một con số bất kỳ, thường thì cũng không nhiều hơn 10 cho x tờ báo mà đôi khi x lớn gấp đôi n (cũng có nghĩa là người ta có thể thấy cùng một nội dung đó, với chính xác từng con chữ trên nhiều tờ báo khác nhau). Rằng em hãy viết như thế này, như thế này, cho phù hợp với nhu cầu như thế kia của khách hàng. Và công việc thợ viết chỉ đơn thuần là chắp ghép tất cả những thông tin khách hàng cung cấp và tìm được đâu đó mà thường là trên cái kho internet khổng lồ, thêm chút gia vị là những lời văn bay bướm (nếu đó là bài cần đăng trên một tạp chí dành cho những cô nàng nhân viên văn phòng vẫn còn mơ đến chuyện nàng Lọ Lem thời hiện đại) hoặc những con số chính xác đến hàng đơn vị (nếu đó là bài muốn được đăng trên mục… tự giới thiệu của một tờ báo có tính khoa học hơn). Thợ viết trong định nghĩa của cô đơn thuần là công việc nhàm chán như thế và chả ai đòi hỏi cô phải gia giảm thêm những cảm xúc của mình vào. Thậm chí, cảm xúc thật của thợ viết – là cô – nếu lỡ bộc lộ trong bài viết còn có thể trở thành nốt nhạc nằm sai vị trí làm hỏng cả bảng hoà tấu mà sếp cô đã dày công tạo tác nên. Thứ cảm xúc duy nhất cô tìm được cho mình từ những bài viết của chính cô thường rất kỳ cục – cách cô vẫn thường gọi nó. Ví dụ như sau khi đọc tất cả thông tin khách hàng gửi đến và tìm được trên mạng về sản phẩm thuốc bổ sung sắt cho phụ nữ, cô sẽ có cảm giác mình đang thiếu sắt trầm trọng. Nếu bài viết của cô không làm cô thoát khỏi cảm giác đó thì theo cô đó là một bài viết thành công. Hoặc như hôm cô viết về loại thuốc bổ cho phụ nữ đang mang thai, cô đã tin rằng nếu một khi cô có thai, đứa con của cô có thể thiếu loại vi chất đó lắm mà nếu như vậy thì biết đâu nó sẽ tàn phế thật, như bài viết của cô đã nói.

Nhưng đó hoàn toàn là công việc của thợ viết. Còn bây giờ cô đang muốn thử làm một nhà văn. Bạn bè cô bảo cô viết rất chỉnh chu. Sếp cô nói những dòng chữ em viết ra anh không bao giờ có thể cắt gọt hay chỉnh sửa gì cả vì nó là một tổng thể như-nó-phải-thế. Và mọi người bảo cô nên thử viết một truyện ngắn hay một cái gì đó hay hay khác. Mọi người nói với cô nhiều đến độ cô tin rằng mình có thể làm được điều đó. Và cô đang thử.

Hai nhân vật của cô gặp nhau ở lưng chừng trời. Đó là một nơi rất đẹp, phía xa có núi, dưới chân có mây, hoa nở dọc những con đường mòn và trong không gian đầy ắp thanh âm của thiên nhiên. Cô gái đang đi bỗng vấp phải phiến đá to vì mải mê canh chỉnh một bức ảnh. Chiếc máy ảnh không sao nhưng để cứu nó cô gái đã vấp vào đâu đó và chân bị trật khớp. Thôi thì coi như có thêm thời gian ngồi nghỉ ngơi giữa nơi xinh đẹp này, cô gái đã tự nhủ với mình. Vài khách du lịch da trắng mắt xanh đi ngang, hỏi han cô dăm ba câu, cô bảo không sao cả, chỉ muốn ngồi lại ngắm cảnh, nghỉ ngơi và chúc họ một chuyến du lịch vui vẻ. Không biết cô nói dối giỏi hay bọn họ không để ý trong khi trò chuyện một tay cô vẫn xoa xoa chỗ chân đau mà lần lượt từng người đều cảm ơn và chúc cô ngắm cảnh vui vẻ rồi lại tiếp tục lên đường. Rồi chàng trai xuất hiện, nhận ra mắt cá chân trái của cô đang sưng lên ngay khi ngồi xuống định trò chuyện dăm câu cùng cô như những người khác. Cô vẫn giữ cái suy nghĩ rằng ở đất nước Á Đông này chỉ có những người phụ nữ thích sự độc lập, có khả năng độc lập, không còn quá trẻ nhưng chưa kịp già, có một sức quyến rũ nhất định với những người đàn ông quanh mình nhưng không có bạn trai mới thích đi du lịch một mình. Còn những người đàn ông ở độ tuổi của cô trở lên dường như chỉ quen với cách sống bầy đàn, không chịu được sự cô độc và những anh chàng đi du lịch một mình thường là loại đang gặp rắc rối với cuộc sống hoặc chỉ là những anh nghệ sĩ nửa mùa. Nhưng chàng trai ngồi cạnh cô không phải một trong hai loại đàn ông đó, và anh ta đang đi một mình. Và rồi…

Và rồi sao nữa? Cô cũng không biết. Cái gì đang chờ đón câu chuyện tình yêu của hai nhân vật ấy? Cô không biết phải viết thế nào về khoảnh khắc đầu tiên ấy trong trái tim hai nhân vật của mình. Hồi hộp? Vui vẻ? Không, nó hẳn phải là cái gì đó khác. Ngôn từ của một cô thợ viết bỗng dưng tắc tị.

Mà cái nghề thợ viết đến với cô thật tình cờ, có lẽ điểm giống nhau nhất của nó với việc trở thành một nhà văn là nghề chọn người chứ không phải do người chọn nghề. Cô đã quyết định chọn nghề báo với hy vọng sẽ được gặp thật nhiều những con người thú vị, được đi thật nhiều những nơi mới lạ. Vậy mà ra trường chưa đầy một năm cô lại quyết định cuộc đời mình sẽ đóng đinh bên chiếc máy vi tính mỗi ngày tám tiếng (hoặc hơn), trong một văn phòng ở cái nơi không thấp cũng không cao của cái cao ốc ngay trung tâm thành phố này. Đó là ngày sếp gặp cô và bảo, anh đã đọc qua những bài viết của em, em không nên quăng mình ra ngoài những cực khổ kia, máy vi tính hiện đại, trong một căn phòng máy lạnh mát rượi và một mức lương cao sẽ hợp với em hơn. Nói cho cùng thì nghề thợ viết giúp cô sống khoẻ, chả bao giờ phải lo lắng nếu ngày mai hết tiền thì mình sẽ thế nào như những ngày còn rong ruổi ngoài phố với mơ ước trở thành một nhà báo “vĩ đại”. Đồng lương trong ngành quảng cáo tiếp thị luôn là niềm mơ ước của nhiều người. Nhưng bù lại, cô phải dán mắt vào màn hình ngày qua ngày, phải quên mất mình ghét cái thuốc chống ghẻ đó vô cùng khi phải viết những dòng ca ngợi công dụng của nó, và đôi khi quên rằng mình còn rất nhiều sở thích hay ho mà lâu rồi không biết làm sao nhìn ngó lại.

Cô lấy chiếc điện thoại khỏi túi xách. Em muốn gặp anh, 7 giờ em đợi anh ở chỗ cũ. Đã lâu lắm rồi cô không nhắn tin cho anh vào những ngày cuối tuần, cũng lâu lắm rồi cô và anh không đến quán café vào chiều cuối tuần. Nhưng hôm nay cô muốn gặp anh.

Từ ngày anh đám cưới, cô hạn chế gửi tin nhắn cho anh, những tin nhắn vu vơ của đứa em gái không có bạn trai. Cô biết khi nhận được những tin nhắn của mình anh sẽ trả lời, theo một cách nào đó mà chắc chắn cô sẽ phì cười dù rằng hiểu rõ anh đang chọc ghẹo cô. Ở công ty, cô có vài đứa lính nhỏ - như cô vẫn thường khoe với anh – đi theo học việc. Đó là những cô cậu bé mới ra trường, hình ảnh của chính cô vài năm trước, được sếp tin cẩn quăng vào tay cô huấn luyện. Dạy bảo đám lính nhỏ ấy thật không khó lắm. Sếp có khả năng tìm ra người có tài giữa mớ hỗn độn những tấm đơn xin việc. Chúng rất nghe lời cô, một hai cũng dạ thưa chị. Với khách hàng, cô cũng là một tay viết có nghề, đáng được tôn trọng. Nhưng với anh, cô luôn là một cô bé con. Cô vẫn thắc mắc không biết đến năm mình đã là bà già năm mươi tuổi nhăn nheo, anh có còn coi mình là cô bé con nữa không. Cô muốn hỏi anh, nhưng cô biết nếu hỏi anh điều đó thì không khác gì tạo thêm cơ hội để anh nhạo cô vài câu gì đó rồi lại phá lên cười, rõ ràng em vẫn chỉ là một cô bé con.

Lẽ ra cô phải nhắn rằng em có một buổi tối rảnh rang, nếu anh không bận việc gì thì hãy đến gặp em ở chỗ cũ lúc 7 giờ, nếu không thì hẹn anh lúc khác. Cô đang ngồi ở chỗ cũ, một quán café yên tĩnh với tiếng nhạc vừa phải, quán tối, chủ yếu được rọi bằng ánh nến ở mỗi bàn và nghĩ vu vơ. Biết đâu anh đang bận việc gì đó, biết đâu anh đang chở vợ về thăm nhà. Lẽ ra mình không nên làm phiền anh nếu anh đang bận. Cô không thích làm phiền người khác. Cô đã quen với nếp giáo dục của gia đình, nếu việc gì có thể tự giải quyết thì đừng bao giờ làm phiền người khác. Bạn bè bảo chính điều đó làm người khác ngại khi ở gần cô. Họ có cảm giác bên cô mình là người thừa. Có lẽ vì thế mà những chàng trai không ở bên cô lâu, họ chẳng biết phải che chở cho cô gái này như thế nào khi cô ta đã có đủ khả năng tự vệ cho mình.

Cửa quán xịch mở. Trong bóng tối mờ mờ cô vẫn nhận ra nụ cười của anh. Có lần cô bảo anh không phải người xấu, nhưng nếu chưa từng biết anh mà lại bắt gặp nụ cười ấy thì người ta không thể nghĩ tốt về anh được. Không có gì thay đổi, anh ngồi vào chiếc ghế đối diện cô. Anh và cô luôn ở tư thế đó trong những cuộc trò chuyện. Không bao giờ cùng một chiến tuyến.

Không phiền anh đang làm nhiệm vụ người chồng tốt chứ? Anh có bao giờ bảo rằng anh là ông chồng tốt đâu nhỉ! Nhóc, đùa thôi, bà xã anh về bên nhà ông bà già rồi, tối mới về. Anh đang định họp hội đồng hành với các chiến hữu. Dù sao thì café cũng tốt hơn bia rượu nhỉ!

Em đã bắt đầu viết, truyện ngắn, về tình yêu. Anh suýt phì cười khi nghe cô nói, ly café trong tay đảo mạnh. Và em đang tắc tị phải không bé con? Cô luôn bất ngờ khi anh nói chính xác những điều trong đầu mình. Mọi người đều khuyên em nên viết, nên thử tập làm nhà văn mà. Anh đâu có khuyên em điều đó bao giờ. Nhưng ngoài anh ra ai cũng khuyên em như vậy cả. Tại sao lại viết về tình yêu? Vì đó là điều mọi người đều viết. Không biết bao giờ cô bé của tôi mới chịu lớn lên nhỉ! Em đã viết đến đoạn nào rồi? Em không biết nên khởi đầu tình yêu đó thế nào. Và em cũng không biết nó sẽ có hình thù gì và rồi sẽ đi đến đâu phải không? Cô lại tròn mắt nhìn anh. Đừng có nhìn anh như thế chứ! Chuyện này lẽ ra em phải tự lường trước cho mình mà. Em đang viết về điều em chưa bao giờ biết. Em định tự mình vẽ ra nó, như nàng Lọ Lem sẽ gặp Bạch mã Hoàng tử trong truyện cổ tích à? Em không biết, em cứ nghĩ tình yêu sẽ tự đến khi những câu chữ của em đưa hai nhân vật đến với nhau. Nhưng ngay ở đó em lại đột nhiên nhận ra mình không biết nên thể hiện nó thế nào. Vì em không biết nó như thế nào, nhóc ạ! Nghề thợ viết của em chỉ cần những con chữ xếp hàng ngay ngắn, nhưng để làm một nhà văn em cần cảm xúc thật, hiểu chưa nhóc?

Ừ, em hiểu rồi. Cô nhăn nhăn cười. Những sở thích hay ho từ lâu cũng đã bị cô gác sang một bên để lo cho những trang viết không cảm xúc. Đã quá lâu từ lần cuối cùng những làn mây vây quanh bước chân cô. Ừ, em thông rồi. Cám ơn anh! Về thôi anh, muộn rồi! Này, em sẽ vẫn viết cho hết câu chuyện đó phải không nhóc? Anh nói khi lên xe chuẩn bị chạy đi. Cô mỉm cười vẫy vẫy tạm biệt. Dĩ nhiên rồi, nhưng mai em sẽ xin nghỉ phép dài hạn trước đã. Cái nơi ở lưng chừng trời giờ không biết thế nào rồi, có lẽ Hoàng vẫn đợi cô. Khi nào trở về em sẽ có quà cho anh.

CZC



Saturday, April 07, 2007

Kiếp sau - Marc Levy

Nếu thật sự có một kiếp sau nào đấy, thì kiếp trước, và trước, và trước... nữa là nơi nào? Anh ở đâu và em ở đâu?... - 2/2007, T.C



Trước tiên phải khen các nhà xuất bản và giới phát hành sách. Ngày nay các anh chị không thụ động ngồi chờ người đọc tìm đến với mình mà rất chủ động đưa sách đến với độc giả bằng nhiều chiêu thức, từ mục giới thiệu sách trên báo đến tạo scandal để làm PR... Tôi tin rằng những bài giới thiệu sách trên các báo thật sự phát huy tác dụng khá mạnh. Ít nhất thì cũng 1 người vì những lời giới thiệu này mà đã tìm đọc dăm ba quyển sách. Kiếp sau (của Marc Levy) là một trong số đó.

Thật ra thì Marc Levy không phải là một tác giả lạ lẫm với giới trẻ mặc dù ông là một nhà văn chưa già. Khá nhiều khán giả Việt Nam đã từng được tiếp cận với ông một cách gián tiếp qua bộ phim tình cảm lãng mạn Just like Heaven - chuyển thể từ tác phẩm If only it was true (tức Và nếu điều này là có thật). Tuy nhiên, sự thật là tôi chưa xem bộ phim này cho đến trước khi đọc Kiếp sau và sau đó thì đã có xem qua nhưng cũng chưa trọn vẹn.

Theo những lời bạt được viết trên bìa sách, Kiếp sau là quyển tiểu thuyết tình cảm được cả người đọc ưa thích lẫn giới phê bình đánh giá cao trong dòng chảy khá hối hả của văn chương đương đại. Rằng cũng theo những lời phê bình này, Kiếp sau thực sự đã mô tả được một tình yêu sâu sắc, thứ tình yêu mà cái chết không thể chia lìa và cho dù phải qua bao nhiêu kiếp người ta vẫn không thể quên được nó, vẫn phải đi tìm nhau. Bên cạnh đó, Kiếp sau cũng được đánh giá cao bởi sự kết hợp hài hoà cả những yếu tố tâm linh và trinh thám.

Sự thật về quyển sách này?

Thực tế là khi đã mở quyển tiểu thuyết này ra và bắt đầu lật những trang đầu tiên tức là bạn đã quyết định gắn kết với nó đến trang cuối cùng. Marc Levy thật sự thành công trong việc buộc độc giả khi đã cầm quyển sách lên thì không thể bỏ nó xuống nếu chưa hoàn tất trang cuối. Ông đã thành công khi xếp chồng các chi tiết lên nhau liên tiếp, buộc người đọc phải tìm cách tháo ra từng lớp, từng lớp một và vì thế bạn sẽ giống như rơi vào cơn nghiện khi chơi trò Bejeweled hay Xếp gạch trên máy tính. Bạn sẽ phải hối hả bước theo từng bước chân của các nhân vật, sẽ chạy theo họ từ thành phố này sang thành phố khác để tìm cho ra đáp án.

Tương tự như các nhà văn đương đại khác của thế giới, Marc Levy vận dụng khá nhiều những kiến thức về các lĩnh vực khoa học và nghệ thuật vào tác phẩm của mình. Tuy nhiên, không như Dan Brown và Janusz Leon Wisniewski, vốn tri thức của Marc Levy được áp dụng trong tác phẩm mềm mại hơn. Sự mềm mại và uyển chuyển này giúp tác phẩm của ông mang tính đại chúng hơn, dễ tiếp cận hơn với phần đông độc giả so với tác phẩm của 2 nhà văn kể trên.

Tuy nhiên, với tôi, nếu quyển sách này được xếp vào loại tình cảm thì nó hoàn toàn là 1 tác phẩm thất bại. Marc Levy mô tả rất chi tiết về tình yêu ấy, rằng họ phải chạy đua từ kiếp này sang kiếp khác để tìm lại nhau sau khi đã thất lạc bởi cái chết. Ông cũng đã viết về tình yêu ấy như là nguồn sống duy nhất của linh hồn mà nếu đánh mất nó thì linh hồn cũng không còn có thể tồn tại. Nhưng... đó chỉ đơn thuần là lời văn của tác giả và tôi hoàn toàn không cảm nhận được tình yêu đó giữa 2 tâm hồn ấy. Tôi chỉ thấy họ hối hả vì sợ không tìm ra được sự thật, hối hả vì sợ lạc nhau thêm 1 lần nữa. Tôi thấy tất cả, thấy cả cái chết một lần nữa đến với họ. Tôi chỉ không thấy cái duy nhất mà lẽ ra tôi cần phải thấy sau tất cả những cố gắng của tác giả: tình yêu. Tôi không thấy được sự rung động của mình ở tư cách một độc giả với mối tình lẽ ra phải đầy bi ai và mãnh liệt ấy.

Tôi nghĩ khi chấp bút Marc Levy đã muốn tạo ra một chuyện tình cảm động, một mối tình Romeo - Juliet của thế kỷ 21 như những nhà phê bình khác nhận xét, trên cái nền của cuộc điều tra hối hả. Nhưng... nếu được đứng ở vị trí một người phân loại sách, thật lòng tôi sẽ đặt Kiếp sau vào một thể loại khác, với tôi nó nên là tiểu thuyết điều tra trinh thám pha lẫn yếu tố tâm linh trên nền của câu chuyện tình giữa Jonathan và Clara thì hợp hơn.

Dù sao đi nữa, thật sự tôi không phủ nhận 2 điều thu hút tôi trong quyển tiểu thuyết này. Đầu tiên là thuyết về linh hồn đi tìm nhau và không gian đang du hành trong chiều của thời gian. Tôi không biết thuyết này do Marc Levy đã lấy từ những nhà nghiên cứu khác hay tự bản thân ông chiêm nghiệm ra và sáng tạo thêm cho tác phẩm của mình nhưng tôi thật sự cảm thấy rất thích thú với nó. Có lẽ sau câu chuyện thần thoại của Ấn Độ về 2 nửa bị cắt đôi của cái hình hài ban đầu mãi đi tìm nhau để ráp lại thành một hình hài trọn vẹn thì thuyết 2 linh hồn tìm về nhau này thật sự rất đáng chú ý. Thứ hai, tuy ông không thành công trong việc bộc lộ tình yêu giữa Jonathan và Clara, tôi lại nhận chân ra một tình yêu khác. Tôi bị cuốn hút hoàn toàn vào sự gần như "thần tượng hoá" của Peter dành cho Jonathan. Peter tự nguyện bị Jonathan kéo chìm vào cái thế giới hội hoạ thế kỷ 19. Peter tự nguyện bỏ tất cả những gì mình đang cố gắng níu kéo cho sự nghiệp vì tình yêu của Jonathan. Peter yêu tất cả những gì Jonathan yêu, từ con phố gần cảng, từ cái chợ trời cho đến bức tranh không biết có tồn tại hay không. Tôi tự hỏi khi tình yêu của một người đàn ông này trở thành tình yêu của một người đàn ông khác, đó là thứ tình cảm gì? Thứ cảm xúc trong tình yêu như của Jonathan và Clara bạn có thể tìm thấy nhan nhản trong những quyển tiểu thuyết diễm tình ngoài kia, nhưng thứ tình cảm giữa Peter và Jonathan mới là điều khác lạ thật sự.

Sau khi đọc xong Kiếp trước, tôi đã đọc qua một vài chương của Và nếu điều này là có thật (tôi mạn phép viết lại tên tác phẩm hơi khác so với nguyên văn trong bản dịch của vnthuquan) và đã rút được một vài motif trong bút pháp của Marc Levy.

Văn phong của ông thật sự hối hả, chính nhịp điệu này đã cuốn độc giả vào một cuộc đua, cuộc đua với thời gian của nhân vật. Đây có thể xem như một thành công trong bút pháp điển hình của ông. Người đọc chính vì yếu tố này trong bút pháp của ông mà cùng bị kéo vào với cuộc đua của nhân vật.

Hãy đừng quên xuất thân của Marc Levy, ông là một kiến trúc sư và ông chia sẻ cuộc đời mình một nửa ở New York, nửa kia ở Paris. Theo tôi, cách ông mô tả vẻ đẹp của thành phố lúc giao thoa của ngày và đêm (cả hoàng hôn lẫn bình minh) từ những ô cửa kính rộng của những toà nhà cao tầng chính là ánh xạ của chính ông vào nhân vật của mình. Nói một cách khác, cái nhìn của từng nhân vật từ cao độ ấy, từ tầm mắt ấy cũng chính là cái nhìn của chính ông.

Tôi không hiểu cuộc sống của con người Mỹ quốc hối hả đến mức nào và họ xa cách nhau đến mức nào. Tôi chỉ biết rằng Crash đã đoạt Oscar của người Mỹ và trong những tác phẩm của Marc Levy sự va chạm tạo nên phép màu. Họ chạm vào nhau và họ nhận ra nhau. Nếu không chạm vào nhau thì sao? Họ sẽ mất nhau chứ? Không ai biết điều đó cả và tôi tin rằng chính Marc cũng không biết. Ông chỉ biết rằng phải chạm vào nhau thì điều đó mới đến, những linh hồn bằng một cách nào đó qua thân xác nhận ra nhau...

Bạn sẽ đọc chứ? Cả Kiếp trước và những tác phẩm khác nữa của Marc Levy?

Chú thích:
- Bìa bản tiếng Pháp.
- Kiếp sau = La prochaine fois - 2004
- Và nếu điều này là có thật = Et si c'était vrai - 1998

Sunday, January 21, 2007

Ngoại tình thứ tư

Bê nguyên xi về từ blog của Trang Hạ

(Theo đơn đặt hàng chú Đoàn Thạch Biền)

- Em thích anh!

Đàn bà lắc lư ly rượu trong giữa những ngón tay, điềm nhiên nói.

- Anh có vợ rồi!

Đàn ông chạm vào cái nhẫn tay trái.

- Em không quan tâm! Em chỉ cần biết, anh thấy sao. Anh thích em không?

- Đoán được ngay câu trả lời!

Đàn ông ngửa đầu lên, đánh giá nhan sắc trước mặt.

Hai tư, trẻ, hãnh tiến, tuổi khá thú vị của một phụ nữ.

Da trắng nõn, thân thể đầy đủ sức sống, một đôi mắt sáng biết nói ra thứ mình muốn.

Một người đàn bà đáng để chú ý, tiếc!

- Nếu anh cũng thích em, em không ngại gì làm tình nhân của anh luôn!

Đàn bà không chờ đợi được, dù chỉ một giây, xỉa một câu, nôn nao chờ nôn nao quan sát.

- Anh yêu vợ!

Đàn ông kiên quyết.

- Anh yêu vợ? Yêu vợ cái gì? Vợ bây giờ? Chắc hẳn già hơn vợ ngày xưa, biết đâu trông chả ra hình người? Nếu không, sao chả bao giờ thấy anh mang vợ lên cơ quan?

Đàn bà ghen tuông thường nhiều lời?

Kể cả ghen tuông với đàn ông không của mình?

- Sao em lại thích anh?

Đàn ông chặt đứt chuỗi lời cay cú của người ngồi bên kia bàn.

- Già dặn, từng trải, cử chỉ phong thái rất đàn ông, biết quan tâm người khác, rất nhiều rất nhiều.

Đàn bà vội vã khẳng định. Thở dài.

- Và anh rất khác bọn đàn ông quanh em. Anh đặc biệt!

Đàn bà nhìn thách thức.

- Thế em đã gặp anh ba năm trước chưa?

Đàn ông đốt một điếu Davidoff.

- Không biết. Không cần biết! Ngồi tù à?

Đàn bà môi cong bất cần.

Ba năm trước, anh là một trong những thằng đàn ông tầm thường trong mắt em!

Đàn ông thả khói, nheo mắt nhạo báng. Đàn bà tóm ly rượu quên làm dáng, mạch máu xanh lên cổ tay.

- Tốt nghiệp đại học quèn, nghề vặt, cả ngày uống rượu, tức tối! Đàn bà mình thèm thì nó không thèm mình, chỉ biết lấy đĩ ra trút cơn, thoả mãn có lần ngay trong sàn, bị cớm tóm.

- Thế… sao…

Đàn bà hoài nghi, nhưng đàn bà bắt đầu háo hức.

Đàn bà dễ bị dụ vào cuộc tò mò như cuộc vui.

Mới hai tư, thèm trải đời, thèm được nếm, cuộc đời là cả một cuộc nếm.

- Vì cô ấy?

Đàn bà đoán và hờn. Mắt loáng lên bắt đèn, sáng lên một thoáng ánh mê li.

- Cô ấy dễ dàng nhìn xuyên qua, nắm lấy ẩn ức trong đáy tim. Dạy tôi rất nhiều điều trong đời.

Rượu lặng im vành ly trên bàn.

- Cô ấy làm tôi không còn cay cú được thua, nhìn xa hơn, sống thiện hơn.

Chữ tôi buông vào cô đơn, như tự nói. Đàn ông tự nghe giọng mình.

- Hồi đó tôi sân si như một đứa trẻ con trước mặt cô, có lẽ, tôi nhìn cô ấy giống cách em đang nhìn tôi, lạ, kiêu ngạo và bất trị.

Đàn bà vội vã cụp mi xuống. Ngón tay bỗng dưng.

- Tôi nghe cô ấy, tôi chấp nhận hiện thực, tôi cố gắng để tôi đừng rơi vào trong vô vàn.

Khó hiểu, ra vẻ hiểu, ngắm ngón tay. Đường gân xanh giống ai hai tư? Nếu là tình nhân, hẳn sẽ rất êm và đau?

Đàn bà hỗn loạn cảm xúc.

- Cuối năm đó, tôi đổi việc tốt hơn, chúng tôi cưới nhau. Hai người, một giường, nhà rỗng toang, cưới một năm mới mua được nhẫn cưới.

Đàn bà lén nhìn tay đàn ông. Tay trái trong bóng tối tay phải.

Mẩu tàn thuốc dài hơn, gẫy gục xuống gạt tàn buồn.

Dường như thêm chỗ ngồi bên quầy bar rộng mênh mông. Một hơi thở nhẹ trong suốt.

- Rượu nhiều, thân thể mệt, mỗi tối cô ấy đun cho tôi bát canh bổ uống trước khi ngủ. Suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên mùi vị đó.

Đàn ông độc thoại. Đàn bà nhắm mắt. Cái mùi vị đó, thân thể mệt, rơi vào trong vô vàn.

- Mười giờ rồi!

Lần đầu tiên đàn ông mỉm cười với đàn bà.

- Em ạ, tôi không bao giờ, tôi không thể, làm gì không phải với cô ấy!

- Em thua rồi!

Đàn bà chua chát, cười mỉm miệng.

- Nhưng khi bằng tuổi cô ấy, em sẽ còn đáng kể hơn!

Đàn bà tự an ủi mình.

- Đúng, lúc đó em sẽ có một người đàn ông hơn anh nhiều! Canh nguội mất! Anh tiễn em!

Chữ anh buông ra tự tại.

- Không cần, em tự về! Anh về sớm với cô ấy đi!

Đàn bà thành thật nhắc.

Đàn bà quay lại một lần nữa dưới ánh sáng nhiều màu hỗn loạn. Hai tư run rẩy:

- Cô ấy đẹp chứ?

- Ừ, rất đẹp!

---//---

Đàn ông mở cửa, vào phòng ngủ, bật lên chiếc đèn nhỏ ấm áp, ngồi xuống mép giường, tha thiết.

- Em ạ, đã người thứ tư rồi.

- Em ạ, anh biết nhiều người thích anh.

- Em ạ, rồi sẽ có ngày anh sa ngã mất.

- Em ạ, chỉ có em nhìn thấy nước mắt anh.

Giọt nước mắt lăn ra trong căn phòng trống.

Một giọt nước mắt trên thiên đường cũng đã rơi.

Nghe nói, những người đã chết trong hạnh phúc thường làm mưa xuống ấm áp.


Trang Hạ viết

(theo một tình tiết tẻ nhạt trên mạng)


Giữa đống comment về cái truyện này, có 1 cái của ai đó nick Thương Nhớ Mười Hai (làm nhớ quyển sách của cụ Vũ Bằng quá), nguyên văn thế này: "O doi co hai loai phu nu. Mot loai yeu dan ong khi ho chua la gi, va o ben dan ong den khi ho da thanh mot cai gi do. Loai kia chi nhin thay dan ong khi ho da thanh mot cai gi do, vay nen phan lon luon yeu nhung nguoi da co ben minh mot nguoi dan ba." - Coi như mượn tạm thay cho ý kiến của chính mình về truyện này.

Riêng về văn phong thì chắc Trang Hạ viết hơi vội, chưa chỉnh sửa nhiều nên có vài đoạn không "đắt" lắm, hơi thừa. Có câu này thì cảm thấy không thích, không hài lòng, không cùng quan điểm: "Nhưng khi bằng tuổi cô ấy, em sẽ còn đáng kể hơn!" thật ra cái chân lý là "không bao giờ bằng tuổi cô ấy cả, đơn giản là vì cô ấy luôn đi trước một đoạn mất rồi!"



Sự thật mà cả anh và em đều biết: 3 năm trước em cũng chưa từng nhìn thấy anh, dù đã hơn đôi lần gặp gỡ...

Wednesday, January 10, 2007

Anh có xê ra không thì bảo?!

Lâu rồi để cái nhà này mốc meo cả lên, làm 1 màn khai vị đầu năm. Đổi style 1 tí nhé! Have fun!

- Anh có thể mời em uống gì được không?
+ “Ồ, thực ra em muốn cầm tiền hơn đấy.

- Anh là nhiếp ảnh gia. Anh đã tìm kiếm khuôn mặt của em từ lâu lắm rồi.
+ Em là bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ. Thực tình em cũng đang tìm một khuôn mặt giống anh.

- Chào em. Chẳng phải chúng mình từng hò hẹn sao? Một hay hai lần ấy nhỉ?
+ Có lẽ là một lần thôi. Em không bao giờ phạm sai lầm đến lần thứ hai cả.

- Em làm thế nào mà lại xinh đẹp thế?
+ Có lẽ em lấy hết phần của anh chăng?

- Em đi chơi với anh vào thứ bảy này chứ?
+ Xin lỗi nhé, cuối tuần này em đau đầu rồi.

- Anh nghĩ anh có thể làm cho em vui đấy.
+ Tại sao? Anh sắp biến khỏi đây hả?

- Em sẽ nói gì nếu anh ngỏ lời cầu hôn bây giờ?
+ Chẳng nói gì cả. Em đâu có vừa nói vừa phá lên cười một lúc được.

- Anh hỏi tên em được không?
+ Để làm gì? Không phải anh đã có một cái tên rồi à?

- Mình đi xem một bộ phim nhé?
+ Em xem phim đó rồi.

- Chẳng phải anh từng thấy em ở đâu đó rồi sao?
+ Vâng, vì thế mà em không lui lại chỗ đó bao giờ nữa.

- Chỗ này còn trống không?
+ Còn đấy. Và chỗ này (tức là cái chỗ mình đang ngồi í) cũng sẽ trống nếu anh ngồi xuống.

- Anh muốn gọi điện cho em. Số của em là gì nhỉ?
+ Có trong danh bạ điện thoại đấy.

- Nhưng anh chưa biết tên em.
+ Cũng ở trong đó mà.

- Anh rất biết cách chiều phụ nữ.
+ Vậy hãy để cho tôi yên.

- Anh muốn tặng em cả con người anh.
+ Xin lỗi, em không nhận quà rẻ tiền bao giờ.

- Vì em, anh sẽ đi đến tận cùng thế giới.
+ Rồi anh sẽ ở đó luôn chứ?

Soure: Tiền Phong